Thứ Ba, 16 tháng 7, 2013

Tổng mục DÕI BƯỚC HUYỀN TRANG

Các bạn thân mến,

Chúng ta đã cùng nhau theo bước Tam tạng Huyền Trang tây du trong thời gian qua. 

Mười bảy năm gói trong những trang sách, với những đoạn đường gian nan trên những đỉnh núi tuyết. Khi post lại chúng tôi cũng bồi hồi cảm động trước chí quyết của người xưa.

Tập sách này soạn xong vào năm 2007, thời điểm đó tài liệu về những di tích chưa được khai quật nhiều, nên còn nhiều thiếu sót.

Chân thành cảm tạ các bạn đã ghé thăm, cùng dõi bước người xưa với chúng tôi.
Mục Lục 




























Dõi bước Huyền Trang
Mục Lục 

Thứ Hai, 1 tháng 7, 2013

Lời giới thiệu về buổi học


Ghi lại lời giới thiệu của Ni sư Như Đức
về buổi học Dõi Bước Huyền Trang

Lớp học của mình hôm nay học về sử. Và ý định là nói về ngài Huyền Trang, cũng là ý định rất lâu. Bởi vì cuộc đời của Ngài có nhiều tấm gương mà mình thấy nếu không phổ biến trong Đại chúng thì rất là uổng.
Với tinh thần học hỏi, tinh thần vì đạo pháp của ngài Huyền Trang đây là một điều chúng ta cần biết, giống như một tấm gương của người xưa mà mỗi khi học, mình có cảm giác cái gì đó khích lệ và nâng đỡ tinh thần của mình rất nhiều.
Môn này thật ra coi như là một sáng tác của thiền viện mình vì chưa có lớp học nào học kỹ về ngài Huyền Trang. Tinh thần học của thiền viện mình là tinh thần học có tính cách tự do. Nên thấy cái gì hay cái gì quý thì mình học.
Về con người của ngài Huyền Trang.
Nguồn cội của đạo Phật của giáo lý nằm tận Ấn Độ. Mà thời trước, thời của Ngài khoảng năm sáu trăm mấy, cách chúng ta ngàn mấy trăm năm, gần hai ngàn năm, thì khoảng cách giữa Ấn Độ và Trung Hoa, giữa Ấn Độ và các nước vùng Đông Nam Á này là những khoảng cách rất lớn. Nên những tinh túy Phật học, những cái gọi là nôi văn hóa thì miền Á Châu có hai nơi gọi là Trung Tâm Văn Hóa cổ đại là Ấn Độ và Trung Hoa. Giữa Ấn Độ và Trung Hoa bị ngăn cách bởi những dãy sa mạc và núi tuyết của vùng Trung Á. Cho nên những gì tinh túy của vùng này không đến được với vùng kia chỉ trừ khi theo chân các vị cao Tăng và các thương buôn của con đường tơ lụa. Thì mới có cái gì chút ít gọi là tinh ba văn hóa. Trong đó tinh ba văn hóa Phật học là một cái tinh túy lớn nhất. Nếu mà chúng ta không biết đến những tinh túy đó, không biết đến những cái hay cái đẹp đó là một điều thiếu thốn vô cùng.
Tôi thì chủ trương như thế này, mình tu là để tìm ra cái hay cái đẹp của chính mình, cái tinh túy của chính mình. Cái mà mình gọi là bỏ qua hết, gạn lọc hết những cái dở xấu, những phần thô, những cái đãi cát tìm vàng, những cái thô, cái dở, cái xấu của mình đãi hết, mình lọc hết, để nhận ra một chất rất quý báu, chất đó trong nhà Phật gọi là viên ngọc, viên ngọc Phật tính ở trong tâm chúng ta. Viên ngọc đó, tinh túy đó, muốn gạn lọc nó chúng ta phải học hỏi rất nhiều, nếu không có những bản kinh, những sách vở, những lời dạy của các bậc đã chắt lọc được cái tinh túy của mình mà truyền trao lại cho chúng ta, thì chúng ta rất là lúng túng, chúng ta không biết mình phải gạn lọc mình như thế nào.
Cho nên mỗi khi gặp những tác phẩm hay, mỗi khi gặp những cuộc đời xuất sắc, tôi đọc rất là cảm động. Và trong những cuộc đời hay nhất mà tôi luôn luôn chiêm ngưỡng và luôn luôn mang ơn, một là ngài La Thập, hai là ngài Huyền Trang. Vì sao? Vì hai vị đó đã có công đem tinh túy của Ấn Độ từ văn học tiếng Phạn chuyển sang văn học Trung Hoa. Nếu không có cái thông dịch đó, cái chuyển tải đó thì văn học Trung Hoa sẽ bị mất một phần rất lớn cái tinh ba của nhân loại.
Cái tinh ba, cái hay cái đẹp cái chất ngọc của nhân loại trong lời dạy của đức Phật, nằm ở Ấn Độ, mà nếu từ Ấn không dịch qua Trung Hoa thì chúng ta bị thiệt thòi rất lớn. Mà giữa hai nền văn học Trung Hoa và Ấn Độ có những nét tương phản với nhau rất nhiều. Thứ nhất ngôn ngữ của Ấn Độ là ngôn ngữ đa âm, cũng như tiếng Pháp, tiếng Anh. Ngôn ngữ của Trung Hoa, Việt Nam, Đại Hàn... là ngôn ngữ đơn âm. Rồi tinh thần của Ấn Độ và Trung Hoa cũng khác nhau rất nhiều. Nhưng nếu không có các vị dịch kinh thì hẳn hôm nay chúng ta phải chuyển qua học Phạn ngữ mới hiểu được hết các bộ kinh của Phật. Nếu không có những bộ kinh đó thì tôi cũng không biết nói tâm hồn của mình nó ra làm sao, nếu mình không đọc được, không nghe dạy, mình không được giải thích, không có kho tàng đó thì tâm của mình kho tàng tri thức và phần tu của mình bị thiếu sót rất nhiều.
Quý vị cũng biết nền Thiền học Việt Nam của mình từ thời các vị Tổ như Tỳ-ni-đa-lưu-chi đến Vô Ngôn Thông cho đến thời Lý thời Trần chịu ảnh hưởng của Trung Hoa. Các vị thiền sư của mình mở miệng ra là nói thơ Trung Hoa, đọc chữ Hán, học chữ Hán, đó là một phần gia tài của mình rồi, thành ra cái này cũng là một nhân duyên.
Cho nên hai vị có công chuyển dịch đem tinh túy từ tiếng Phạn chuyển qua Trung Hoa lớn nhất đó là La-thập và Huyền Trang.
Ở đây chúng ta chỉ nói đến tinh thần của Ngài, vì sao Ngài lại phải cất công đi xa đến như vậy. Đó chính là tinh thần quý trọng Phật pháp của ngài Huyền Trang. Khi Ngài mới 13 tuổi Ngài muốn xuất gia. Quan Lý Khanh Trịnh Thiện Quả hỏi Ngài, ông xuất gia ý muốn để làm gì. Ngài đáp, ý muốn xa thì nối gót Như Lai, gần thì làm cho Phật pháp chiếu rạng. Cho nên mục đích xuất gia, mục đích đi từ Trung Hoa sang Ấn Độ đó là tinh thần cầu học, đó là tinh thần quý trọng Phật pháp. Vì Ngài muốn lời dạy của đức Phật phải được hiểu chính xác rõ ràng. Chớ không đi tới nơi thu thập những tinh túy đó thì không biết được ý chính đích thật của nó như thế nào, mà không biết được ý chính đích thật thì truyền lại cho người sau bị sai lệch. Ý Ngài không muốn điều đó cho nên Ngài cất bước ra đi. Cũng có nhiều vị Tăng mà người ta gọi là “nhập Trúc cầu pháp”, nhưng mà cũng có thể lượng cung cấp và cơ duyên không bằng ngài Huyền Trang. Cho nên khi ngài Huyền Trang về nước Trung Hoa dưới thời nhà Đường là một thời văn hóa thịnh trị, vua Đường Thái Tông lại là một người rất quý trọng ngài HuyềnTrang, xây dựng một cung riêng để Ngài ở và dịch kinh coi như tài trợ cung cấp hết những nhu cầu cần thiết cho dịch trường của Ngài.
Hai người được nhà vua bảo hộ thành công là ngài La-thập và Huyền Trang. Chúng ta thấy đời sống và sinh hoạt của tăng chúng thời đó nếu được vua bảo trợ và tài trợ thì mới thành tựu tốt đẹp.
Tư tưởng Phật học nếu Ngài không đem bộ Đại Bát Nhã về dịch, nếu Ngài không đem tư tưởng Duy thức sang Trung Hoa thì người ta nói nền triết học Phật học của Trung Hoa bị một lỗ hổng rất lớn. Vấn đề Tánh Không, Duyên khởi, Duy thức, vấn đề nhận xét sâu về tầng tâm thức của con người, chúng ta chỉ học được một chút xíu như hạt cát giữa sa mạc mà thôi. Còn lãnh hội của ngài Huyền Trang là lãnh hội rất sâu, tinh tế và đích thực là cái nhìn triết học Phật học.
Nhưng ở đây chúng ta chỉ nói đến tinh thần tu học. Sở dĩ Ngài đi được là Ngài có quyết chí, có được sức gia hộ và nhân duyên tốt đẹp trong hành trình gian nan của Ngài, bởi vì sao? Bởi vì đi qua sa mạc toàn cát không. Quý vị sẽ học tới theo bước chân của Ngài trong những giờ học thì quý vị sẽ thấy nếu người không có quyết tâm thì sẽ không bao giờ đi được.
Cho nên ở đây nói là gì? Chúng ta muốn tu học tới nơi tới chốn đều phải quyết tâm như thế. Ngài đi rất là gian nan khổ cực. Mình bây giờ chỉ là thừa hưởng những thành quả tốt đẹp của Ngài mà thôi. Mình tu có cực khổ một chút cũng đâu xá gì. Như vậy có nghĩa là lời giới thiệu sơ nói đơn giản về cuộc đời tấm gương của ngài Huyền Trang.
Bao giờ đọc lại những chuyện Ngài tôi vẫn thấy cái gì đó thán phục và mong ước là tu học làm sao có được một tinh thần như Ngài, tu học được như Ngài. Tu cũng là rất hết lòng mà học hỏi, nghiên cứu thì cũng là rất hết lòng.

Quý vị có thể đặt câu hỏi là ngài Huyền Trang tu theo pháp môn nào? Khi đi đường Ngài chỉ niệm Tâm kinh, niệm Bát Nhã. Và khi trở về nước thì thời khóa biểu của Ngài là, mỗi sáng trước khi dịch thuật Ngài đều ngồi thiền, buổi khuya Ngài đã dậy ngồi thiền và trong khi ngồi thiền tâm tư hết sức tĩnh lặng, thì tất nhiên tất cả các ý nghĩa thâm áo Phật pháp hiện ra một cách rõ ràng. Cho nên Ngài đọc một bản kinh Ngài nhìn chữ Phạn đó mà dịch qua Trung Hoa thì Ngài biết được ý nghĩa đích thực và chính xác của nó để dịch, có nghĩa là Ngài sẽ không bao giờ sai sót. Mà không phải một mình Ngài, dịch trường chắc hẳn đã có nhiều đệ tử, có nhiều người giỏi chữ Phạn. Người ta sẽ cầm một bản kinh ra, bên này sẽ đọc âm tiếng Phạn, bên kia sẽ đọc tiếng Trung Hoa và sẽ viết ra. Ngài chỉ là người kiểm soát, sẽ có một số bản dịch Ngài kiểm soát. Nhưng đối với bộ Đại Bát Nhã thì đích thân Ngài dịch vào những năm cuối đời gần tịch, Ngài biết sức của mình không còn bao nhiêu mà hoài bão của Ngài là muốn giới thiệu tinh thần cho đại chúng, tăng chúng của Trung Hoa. Nếu không dịch kinh này thì ngoài Ngài ra, tất nhiên là phải am hiểu Phật pháp sâu xa, ngoài mình ra thì e người sau không đủ sức cho nên Ngài cố công dịch bài Bát Nhã này. Và đến quyển cuối cùng cũng là quyển mà Ngài biết sức của mình sắp sửa chấm dứt, hơi thở của mình cũng không còn bao nhiêu. Ngài đã làm việc từ sáng cho tới khuya. Xong thì buông bút nghỉ ngơi sáng dậy ngồi thiền, tức nhiên là một cuộc đời miệt mài vô cùng. Cho nên mình đọc rồi thấy rằng quả thật Phật pháp có những bậc hết lòng như vậy. Nên chúng ta mới có được những kho tàng có được nguồn giáo lý mà bây giờ chúng ta không thể nào xưng tán được. Chỉ có một điều là chúng ta là những người chịu ảnh hưởng của Trung Hoa. Chúng ta học Phật qua những trang kinh Hán văn, chúng ta học tinh thần Đại thừa của các vị Tổ sư truyền dạy lại, thâm nhập trong tinh thần của mình. Mỗi Tăng Ni sinh cũng chịu ảnh hưởng đó, cho nên suy nghĩ nhận thức của mình thấm nhuần tư tưởng Đại thừa.

Bây giờ có những Tăng Ni sinh đi Ấn Độ du học thuật lại thế này. Tăng Ni sinh được đào tạo tại các trường Việt Nam qua Ấn Độ học để theo chương trình học Cao học lên Tiến sĩ. Các vị đó học với những vị thầy Giáo sư người Ấn, chương trình rất nặng nhưng nặng về ngoại ngữ, còn về tinh túy Phật học thì Tăng Ni sinh Việt Nam rất là giỏi, nên khi tiếp thu rất mau hiểu, vì mình có căn bản rồi, mình chỉ cần học giỏi Anh văn để viết những điều đó thôi. Có những điều Giáo sư người Ấn còn chưa biết hết, chưa hiểu hết mà Tăng Ni sinh Việt Nam đã được học hết, được chuẩn bị kỹ từ quê nhà. Nói điều này để quý vị thấy nền Phật học của mình là nền Phật học rất giỏi và tốt.

Ngay cả quý vị ở đây cũng vậy. Tuy học ít nhưng học cái gì có căn bản cái đó. Nắm hiểu rõ ràng sâu cái chìa khóa tinh thần của môn Phật học đó. Tất cả những điều chúng ta học ở đây, ngay hiện tại của cả Tăng Ni Việt Nam được thừa hưởng hiện tại phải nói là nhờ công ơn của ngài Huyền Trang rất là nhiều. Bởi vì triết học Phật học và tinh thần Phật học Đại thừa nằm trong bộ Bát Nhã, Duy thức, Trung luận, và Trung luận thì đã có ngài La-thập dịch rồi. Có nghĩa là những điều thâm sâu khó hiểu đã được dịch sang tiếng Trung Hoa. Bây giờ chỉ cần giỏi tiếng Hán để đọc và dịch và dĩ nhiên là chúng ta đã thành tựu.

Đó là ơn rất lớn của các Ngài, vì mình không giỏi tiếng Phạn. Và những người giỏi tiếng Phạn bây giờ rất ít người hiểu được tinh thần đó, đọc được nguyên bản đó, còn những người khác kể cả sinh viên Ấn Độ, người Ấn cũng không hiểu được tinh thần Phật học Đại thừa bằng Tăng Ni Việt Nam, bằng những người Việt Nam. Vì sao tôi nói điều này, vì chúng ta ở trong một nước thấm nhuần tinh thần Đại thừa, được học, được nghiên cứu, giảng dạy tự nhiên nó được ăn sâu vào trong, mình không thấy nó ăn sâu hồi nào, nhưng tận trong cùng của mình những suy tư này kia cách ăn nói bộc lộ nó mang tính cách đó.
Ví dụ, nói ngay tính chất các pháp tính chất duyên khởi chẳng hạn. Mình biết các pháp do nhân duyên, chỉ cần một cái biết đơn giản như vậy thôi. Mình biết cái này do duyên hơn nên không cố định, cái này kết hợp với cái kia cho ra một nhân duyên như thế. Nhân duyên nó có khi được có khi mất có khi thành có khi bại. Mình biết tính chất nhân duyên. Mình nói không phải lý luận này kia, mà mình nói để biết mọi thứ nó chỉ tàm tạm như thế. Đâu có gì cố định chắc đâu mà chấp chi cho mệt. Như vậy chúng ta đã sống với tinh thần Bát Nhã, tinh thần tánh Không duyên khởi. Tuy là phải lấy danh từ để giải thích nhưng mà mình thấy mình học được tu được và đó là cốt lõi hệ thống triết lý mà chính ngài Huyền Trang đã dịch và trao truyền cho chúng ta. Tôi chưa nói tới phần Tạng thức, A-lại-da thức hay thất thức, chỉ nói về tánh Không duyên khởi, chỉ nói về phần mà mọi pháp đều do duyên hợp. Cho nên có duyên thì cái này hợp cái kia, có duyên thì chúng ta được thành tựu như thế, không đủ duyên thì mọi thứ sẽ rắc rối như thế nào. Mọi thứ đều do duyên, cho nên mình khỏe. Đó cũng là một cách tu, một cách giải quyết bớt những vọng tưởng, những phiền não của mình, mình sẽ không bận tâm khổ sở gì nhiều.

Chỉ với tinh thần đó sự truyền đạt, dịch thuật giảng dạy từ thời ngài Huyền Trang cho tới bây giờ thì quý vị thấy ảnh hưởng rất lớn của nó. Ảnh hưởng đó rất quan trọng chớ không đơn giản. Tôi chỉ gợi ý như vậy thôi, mong rằng quý vị khi học sẽ thấy được tinh thần đó, sẽ theo dõi được bước chân Ngài.

Và hai điều chúng ta phải lưu ý. Đó là sức gia hộ, hình như giữa một cơn rất nguy hiểm thập tử nhất sinh Ngài đều có sức gia hộ, sức gia hộ đó là gì? Đó là sức tu tích từ thời quá khứ cho đến giờ chớ không phải giờ, thì phải hiểu như vậy. Có khi đi một đoàn với Ngài qua dãy núi tuyết, người ta chết gần hết chỉ còn mấy thầy trò, thì phải biết khó khăn vô cùng.

Thứ nhất là phải có sức gia hộ, thứ hai là phải có lòng tin tưởng vào Phật pháp. Với hai tinh thần này quý vị sẽ hiểu được cuộc đời và con người của ngài Huyền Trang. Bài học đó quý vị sẽ học cho chính mình. Áp dụng cho chính mình. Ai cũng mong muốn được sức gia hộ, nhưng muốn được sức gia hộ trước hết mình phải như thế nào. Mình muốn được sức gia hộ trước hết phải gia hộ cho người khác, mình phải tử tế với người khác. Gia hộ cho người khác có nghĩa là gì, ở đây chúng ta mở rộng lòng ra thương yêu, gia hộ giúp đỡ cho người khác có nghĩa là mình đã gia hộ cho người bạn của mình. Từ sức gia hộ đó mình sẽ nhận được sức gia hộ của chư Phật, đó là điều thứ nhất.

Thứ hai là mình phải quyết chí, nghĩa là coi mạng mình, thân mình, con người mình nó không đáng trọng mình chỉ đem thân tứ đại tạm bợ này đi học Phật pháp. Phật pháp là một điều đáng quý trọng, còn thân mình có thể hy sinh, hy sinh cái ta của mình để cho Phật pháp của mình chói rạng hơn. Thì cái đó là cái mà chúng tôi nghĩ rằng đó là ý nghĩa đích thật.

Tôi nghĩ như vậy, chia sẻ cùng quý vị và truyền kinh nghiệm đó cho quý vị để chúng ta có thể học những giờ học của ngài Huyền Trang thú vị và lợi ích hơn.

Mạnh xuân 2007
Như Đức

Đôi lời


Chúng ta sẽ bắt đầu từ đâu?

Nếu là một Đường Tam Tạng thì phải bắt đầu từ động Thủy Liêm theo chân Tôn Hành Giả, nhưng nếu theo dõi bước của Đường Huyền Trang thì bắt đầu từ Trường An vậy.

Dò theo bản đồ Trung Quốc hiện nay không thấy tên Trường An, tôi đã dùng một cái kính lúp có đèn để mong tìm ra một chấm nhỏ, mà không thấy. Mãi sau, hỏi thăm mới biết Trường An chính là Tây An hôm nay.

Trường An nay là thủ phủ Tây An của tỉnh Thiểm Tây.

Có một nhà khảo cổ than rằng: “Thời gian năm tháng chẳng chút lưu tình”, đọc cảm khái làm sao với một người giở trang sử cũ. Chỉ với thời gian đôi mươi năm mà đường về đã không còn dấu vết, thì vài ngàn năm biết tìm thấy nơi nào!

Nhà Chu định đô ở Phong Cảo nội vi huyện Trường An. Mãi đến khi Tần Thủy Hoàng thống nhất dải đất Trung Nguyên, nhà Tần mới định đô ở Hàm Dương cách Trường An khoảng 20 km về phía Tây Bắc.

Kinh đô hoành tráng thế nào, chắc chúng ta không biết, mà cũng chưa nghĩ sẽ biết làm gì, nhưng khi nhà Tần về tay Hán Cao Tổ (Lưu Bang) thì cung A Phòng ở Hàm Dương bị đốt cháy, cháy suốt tháng trời!

Từ đó nhà Hán định đô ở Trường An.

Đến đời Hán Vũ Đế năm 140 trước công nguyên có các nhân tài nổi tiếng như: Đổng Trọng Thư, Tư Mã Tương Như, Lý Quảng, Hoắc Khứ Bệnh, Tư Mã Thiên, Trương Khiên, Tô Vũ đến đời Minh Đế có Ban Siêu… Trong số đó có Ban Siêu và Trương Khiên là những người tiên phong mở đường bang giao với Tây Vực. Hai vị đó và Lý Quảng, Tô Vũ là những nhân vật được nhắc đến nhiều trong ngữ lục. Sau này ngài Huyền Trang cất bước Tây du nhờ những con đường mòn hiểm trở đã được thông thương trước đó hơn 700 năm!

Nhắc đến Trương Khiên, sách “Ngụy Thư Thích lão Chí”có ghi rằng: “Đời Vũ Đế nhà Tiền Hán, có Trương Khiên phụng mệnh vua đi sứ sang nước Tây Vực về tâu rằng: “Bên nước Thân Độc (Ấn Độ) có đạo Phù Đồ (chỉ Phật giáo)…” Tuy rằng người sau không đồng ý thuyết này, nhưng nêu ra để thấy sự khai thông con đường tơ lụa giúp sự du nhập Phật giáo vào Trung Quốc dễ dàng hơn.

Cổng Khai Viễn của kinh đô Trường An năm mất mùa 629 chắc đã bị thời gian và không gian xóa lấp.

Cổng Khai Viễn bây giờ - chỉ mượn tạm một dấu tích trên địa lý để nói rằng ngày xưa chính nơi mảnh đất này ngài Huyền Trang đã cất bước Tây du. Hoặc giả cũng chính nơi đây các vị Cao tăng Tây Vực đã vượt ngàn dặm núi non sa mạc đem theo kinh điển đến, dịch từ Phạn ra Hán làm nền tảng cơ bản buổi ban đầu.

Qua cơn binh biến, pháp nạn, những bản kinh còn tồn lại gây những mối nghi không giải đáp được, nên bước Huyền Trang ghi dấu tìm về nguồn cội Thiên Trúc. Hiện nay có những bản kinh không còn bản Phạn, nhờ những bản dịch Hán còn để lại mới biết rằng có một bản kinh như thế. Cảm động làm sao khi mở những trang kinh cũ.

Trong tập sách nhỏ sơ lược này - một dấu tích nào đó trong khoảng đường được vẽ lại, nơi những con đường mòn nhỏ qua núi cao, qua rừng rậm, qua sông sâu như còn lưu bóng ngài An Thế Cao, La Thập, Đàm Vô Sấm... từ Tây Vực qua hắt trên bóng ngài Pháp Hiển, Huyền Trang từ Trường An về Thiên Trúc. Và nhất là còn đó một hình bóng được nhắc lại rằng “chỉ một mình và bóng của chính mình đổ xuống trên dặm đường sa mạc mênh mông về Tây”...


Cuối xuân 2007

Lời giới thiệu

Bìa sách - Dõi bước Huyền Trang


Người xưa vạn lý trường chinh để thâu tóm giang sơn, sự
nghiệp, danh tiếng và thêm nghiệp khổ nghìn thu. Ngài
Huyền Trang đơn thân độc mã băng qua gió cát mịt mù
đi tìm nguồn suối Phật đà rót từ đỉnh Himalaya. Truyền
thuyết dân gian gọi Ngài là “Tam tạng đi thỉnh kinh”.

Kinh là những lời chuyển tải sự sống chân thật, đi tìm
kinh cũng là để thâm nhập tận cùng lẽ sống. Ngoài công
phu đưa về cho Trung Hoa tạng giáo, mở thêm chân trời
văn học, sử địa, xã hội… cho Tây Vực gần gũi Đường
triều, Ngài đã giới thiệu hình ảnh Tăng nhân Trung Hoa
uy nghi đức độ và hết sức thông tuệ cho những dân tộc
vùng Trung Á. Chỉ có công phu thành khẩn và phuớc báu
trọn vẹn như Ngài mới làm nên sự nghiệp nối liền hai nền
văn hóa lớn của Á Đông, mà cho tới bây giờ chúng ta chỉ
biết chiêm ngưỡng.

Tác phẩm “Dõi bước Huyền Trang” biên soạn lại những
nẻo đường khuất tịch, những vùng đất xa xưa mà ngày nọ
Ngài đã đi qua. Xin chỉ là một chút tâm thành nhỏ nhoi
đặt dưới chân của Ngài.

Như Đức
(2007)

Lời dâng Thầy



Kính dâng Thầy,
Người đã làm sống lại các bản Kinh năm xưa,
để chúng con đủ niềm tin nương theo dấu cũ tìm về nguồn.

Truy cập