Cuối nhà Tùy, Trung nguyên loạn lạc, Tùy Cung Đế vừa lên ngôi
niên hiệu Nghĩa Ninh năm đầu thì Lý Uyên đã bình định mọi miền, tiến vào Tràng
An, lập nên nhà Đường (618-907), niên hiệu Vũ Đức nguyên niên (618).
Lý Thế Dân lên ngôi tức Đường Thái Tông, niên hiệu Trinh Quán
(627) thì Phật giáo cũng bước sang chuyển biến mới. Nhiều tông phái phát triển
mạnh, các danh Tăng từ Tây Vực không còn sang truyền đạo nhiều như những triều
đại trước. Những kinh điển đã phiên dịch trong mấy trăm năm qua đã làm nền tảng
cho nhiều tông phái thành lập và phát triển. Có nhiều Cao tăng Thạc đức xuất hiện,
những nhà dịch kinh danh tiếng thời bấy giờ phần lớn là người Trung Quốc.
☸
Trung Quốc đã trải qua những năm tháng xây dựng nền móng cho
kinh điển chuyển ngữ từ Phạn sang Hán. Với hai biến cố Pháp nạn Bắc Ngụy và Bắc
Chu, kinh điển thất lạc nhiều. Tuy có nhiều tác phẩm giá trị nhưng trong đó còn
những điểm chưa rõ ràng, nhiều mâu thuẫn và sai sót. Nên các Cao tăng vẫn có ý
định nhập Trúc cầu pháp, đến tận nguồn Ấn Độ nghiên cứu kinh điển.
Nhiều vị tăng cùng ngài Huyền Trang dâng biểu xin đi Ấn Độ,
nhưng nhà Đường còn đang trong thời kỳ vương quyền chưa vững, nên không chấp nhận.
Mọi người đều nản lòng lui về, chỉ riêng ngài Huyền Trang cương
quyết giữ ý định của mình, nên còn ở lại Tràng An, trong khi chờ đợi Ngài học
thêm tiếng Tây Vực và Ấn Độ.
Nhân khi quanh vùng Tràng An gặp thiên tai, người dân được phép đi nơi khác làm ăn, Ngài theo đoàn di dân đó về phương Tây, mở đầu cuộc du hành vạn dặm.
I-
TIỂU SỬ VÀ NGUYÊN NHÂN DU HÀNH
Pháp
sư tên Huyền Trang, họ Trần, người đất Trần Lưu. Vốn
là hậu duệ của Trần Thực, Trần Thực hiệu Trọng Cung làm trưởng Thái Khâu thời
nhà Hán. Tằng tổ là Trần Khâm làm Thái phó đất Thượng Đảng
thời Hậu Ngụy. Tổ phụ là Trần Khang làm quan nhà Tề nhận chức Quốc tử Bác sĩ,
hưởng bổng lộc đất Chu Nam. Con cháu lập nghiệp nơi này,
là người đất Câu Thị.
Thân
phụ là Trần Tuệ, người tài năng tiết tháo
thanh nhã, sớm thông kinh thuật. Người cao tám thước, mi dài mắt sáng, dáng dấp
như nhà nho áo rộng đai lớn. Tánh điềm
đạm giản dị, không cầu vinh hiển. Hơn nữa
lúc đó triều chính nhà Tùy suy vi, bèn ở ẩn, để
tâm vào sách vở.
Pháp
sư Huyền Trang (玄奘
Xuán Zàng, Hsuan Tsang) sinh năm 603 nhằm đời
nhà Tùy . Tên tục Trần Huy (hoặc Trần Y陳褘) sinh tại Lạc
Châu洛州, huyện Câu Thị緱氏縣,
tỉnh Hà Nam.
Theo
các truyện ký thì từ nhỏ Ngài nổi danh thông minh đĩnh
ngộ, Ngài là con út trong bốn anh em, sớm được thân phụ chỉ
dạy những nghi thức Nho giáo. Từ nhỏ đã mến cổ chuộng
hiền, sách vở không thanh nhã chánh đáng thì không
xem, không theo những tập tục mà thánh hiền không tập. Ngài không giao du với bọn
trẻ cùng tuổi và dạo chơi phố thị. Chuông trống rầm rĩ
tại các ngã tư hay trăm vở kịch múa hát trên đường
lộ, nam nữ tụ tập đông đảo, ngài cũng
không bước chân ra xem. Dù còn nhỏ ngài đã biết rèn luyện
những biểu lộ ôn hoà, trong sáng chơn chất và cẩn trọng. Người anh thứ hai là
Trần Tiệp làm Hòa thượng ở chùa Tịnh Độ, Lạc Dương.
Ngài đến thăm anh và nghe giảng
kinh điển.
Năm
lên 13 tuổi Ngài đã xuất gia. Học kinh Niết Bàn, quên ăn
bỏ ngủ. Học Nhiếp Đại Thừa luận, đọc
lần đầu hiểu sâu ý chỉ, qua lần hai là thuộc
không sót một chữ.
Đất Lạc Dương loạn lạc, Ngài cùng với anh về Tràng An, nhưng nơi
này không có pháp tịch nên lại cùng anh đi về đất Thục.
Ngài đi qua hang Tý Ngọ vào đất Hán Xuyên. Ở lại một tháng theo
học các vị pháp sư.
|
Hang Tý Ngọ |
Hang Tý
Ngọ子午谷 tại phía
nam huyện Trường An- Thiểm Tây, ngay cốc khẩu có trấn Tý Ngọ. Chính nam Trường
An là núi Tần Lĩnh, có hang Tý Ngọ dài 600 dặm. Đây là đường cũ của Hán Ngụy,
nay tại huyện Dương洋 .
Tý Ngọ đạo子午道 còn gọi là Tý Ngọ cốc 子午谷, Cao Viễn lộ
高速路. Bắc khẩu
tại Trường An gọi là Tý khẩu子口, Nam khẩu gọi là Ngọ khẩu午口.
Từ Trường An xuất phát vượt qua Tần
Lĩnh秦岭, qua Trữ
Thiểm宁陝, Thạch
Tuyền石泉, Tây
Hương西鄉 đến Dương
huyện洋县 dài 420km.
Sạn đạo xưa còn gọi là “Lệ Chi đạo”荔枝道, có nguyên do từ tích: Phù Lăng涪陵 Tứ Xuyên
có một vườn Lệ Chi, từ Thiểm Tây, Tây Hương ruổi ngựa nhanh qua hang Tý Ngọ đến
Trường An không quá ba ngày. Khi đem đến, trái vải vẫn còn tươi.
Hán Xuyên漢川, nhà Tùy đổi Hán Trung thành Hán
Xuyên, nay là Nam Trịnh南鄭 tại Thiểm Tây.
Sau đó, Huyền Trang theo anh đến Thành Đô - Tứ Xuyên, học với các
danh sư. Ngài học Nhiếp Luận Tỳ Đàm. Trong vài năm là học thông các bộ kinh.
Năm 20 tuổi thọ giới cụ túc tại Thành Đô, học luật nghi. Kinh sách
tại Ích Châu, Ngài đều xem qua, chỗ học kinh luận đã cùng, muốn vào kinh thành để
hỏi những chỗ còn nghi ngại.
Ngài dong thuyền đi trên Tam Hiệp 三峽 đến Kinh Châu 荊州.
|
Cù Đường hiệp |
Những đoạn sông nằm giữa hai vách núi dựng đứng gọi là “hiệp”.
Trên Trường Giang có hiệp nổi tiếng, nên gọi là Tam Hiệp, là Cù Đường Hiệp瞿塘峽 chỉ dài
8km, có nơi sông chỉ rộng 100m, hai vách núi đá cao từ 500m đến 700m, hiệp này
đẹp nhất. Sau Cù Đường, sông Dương Tử vào địa phận núi Vu Sơn巫山, núi
quanh năm mây mù, Vu Hiệp巫峽 dài 46km, gió cực mạnh như một
bễ lò! Sau đó tới Tây Lăng Hiệp西陵峽 dài 80km, dài nhất và nguy hiểm nhất, nhiều đá ngầm và nước
xoáy. Kết thúc “hiệp” tại Nghi Xương宜昌.
|
Cù Đường hiệp |
|
Vu hiệp |
|
Tây Lăng Hiệp |
Tại Kinh Châu, ngài giảng Nhiếp Luận Tỳ Đàm.
Sau đó đi Tương Châu相州 để
hỏi những nghi vấn.
Đến Triệu Châu趙州 học
Thành Thật Luận成實論.
Ngài trở lại Trường An. Ngài học kinh sách Đại thừa với nhiều vị
giảng sư, thấy những chỗ giảng giải mâu thuẫn nhau, tham hỏi khắp nơi không quyết
nghi được. Đây là lý do khiến Ngài lên đường đi Ấn Độ để tự mình tìm hiểu. Ngài
giữ vững chí nguyện của mình, trong khi chưa được chấp nhận đi Ấn Độ, Ngài rèn
luyện sự kiên gan bền chí và sức chịu đựng, chuẩn bị cho chuyến Tây du đầy gian
nguy hiểm trở.
Đường
Thái Tông, niên hiệu Trinh Quán năm thứ ba (629), Ngài bắt đầu chuyến viễn hành.