ĐẠI
ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ - QUYỂN 2
大唐西域記卷第二
[Đi
qua 03 nước]
①→ Lampāka phía Bắc giáp Tuyết
sơn (Hindu-Kush) ba phía giáp rừng núi dầy đặc. Khí hậu ôn hòa, không có tuyết,
sương mỏng. Dân ở đây dáng người thấp nhỏ, tính tình yếu đuối. Có hơn mười ngôi
chùa, tăng chúng ít, phần nhiều học pháp Đại thừa.
Phong
cảnh nơi đây không còn giống vùng Trung Á, ảnh hưởng nhiều phong cảnh Ấn.
Huyền
Trang lưu lại đây ba ngày.
Lampāka (Lam-ba濫波Lan-po), nay là
Laghman (Lạp-cách-mạn拉格曼) thuộc Afghanistan (A-phú-hãn), nằm bên bờ Bắc của sông
Kabul . Trong thời
cai quản của Đại đế Alexander, vùng này tên Lampaka, khi Huyền Trang đến đây,
người theo đạo Phật không nhiều, phần lớn theo Ấn Độ giáo.
Laghman vị trí phía Đông Afghanistan , thủ đô là Mihtarlam (Mễ-đặc-lạp-mẫu
thị米特拉姆市). Vùng đất này tươi tốt với hai con sông Alingar và sông Kunar
chảy qua phía Tây và Đông. Laghman có vùng đất ẩm khá lớn nên là vùng cấp trái
cây và rau cải rất đáng kể cho Kabul
đặc biệt là dưa chuột. Thu hoạch chính khác là lúa gạo và lúa mì.
Laghman |
Laghman |
Đường qua
Jalalabad
② → Tiếp tục đi về hướng Nam 100 dặm,
qua một ngọn núi nhỏ. Rời những ngọn núi qua sông đi chừng hai mươi dặm đến xứ
Nagara-Hara (Na-yết-la-hát那揭羅喝).
Phía Đông nam cách thành hai dặm có một tháp bằng đá cao
hơn ba trăm thước, do vua Asoka lập. Thành có lầu gác, lầu thứ hai có tháp nhỏ
bằng bảy báu, thờ đảnh cốt Như Lai, đảnh cốt sắc màu vàng trắng (Đảnh cốt là
xá-lợi xương đầu Phật).
Huyền Trang nghe phía Tây nam đô thành, trong núi đá có một
động có bóng Phật, muốn đến lễ bái. Đường đi đến đó vắng vẻ hoang vu lại nhiều
giặc cướp, quốc vương nước Ca-tất-thí cho sứ giả đến mà chẳng ai dám đi, Huyền
Trang đành đi một mình. Ngày thứ nhất trên đường đi, có một đồng tử đưa đến một
thôn nhỏ nghỉ qua đêm, ngày thứ hai có một ông già dẫn đường. Đi chẳng biết bao
lâu, bỗng có năm tên đạo tặc đưa dao cản đường, hỏi
- Hòa thượng đi vào đây làm gì?
- Đi lễ bái bóng Phật
- Ông chẳng từng nghe có bọn cướp sao? Huyền
Trang sắc mặt không hề sợ hãi nói rằng:
- Giặc cũng là người, nay tôi đi lễ Phật gặp
mãnh thú trên đường còn không sợ, hà huống các vị là người. Mọi người thấy giặc
là giặc, Huyền Trang thấy giặc là người. Giặc tự cho là giặc sẽ có hành động
như giặc, khi rõ ràng chính mình cũng là người thì chẳng còn trở lại là giặc nữa.
Được Huyền Trang khai thị, bọn cướp phát tâm theo Huyền
Trang đi lễ Phật.
Jalalabad 34°25′59″Bắc 70°27′00″Đông, cao độ 553m, là một thành phố phía Đông Afghanistan, gần sông Kabul và sông Kunar.
Jalalabad
Trên trục
giao thông, Jalalabad nằm giữa Kabul ở phía Tây
và Peshawar ở
phía Đông. Biên giới tự nhiên của vùng phía Tây là Jagdalak Pass và phía Đông
là Khyber Pass, với sông Kabul phía Bắc và dãy Safed Koh (núi tuyết) ở phía
Nam.
Sông Kunar |
Sông Kunar hợp dòng với sông Kabul
tại phía Đông của thành phố Jalalabad. Hợp dòng này chảy về phía Đông tới Pakistan , lại hợp dòng với sông Indus tại Attock.
Sông Kunar dài 480km, thuộc phía Đông Afghanistan
và Tây bắc Pakistan .
Hệ thống sông Kunar do băng hà và tuyết tan từ dãy Hindu-Kush. Từ hợp dòng của
sông Lutkho và Mastuj chảy vào vùng trung tâm Chitral ở Pakistan gọi là
sông Chitral. Sông Chitral chảy về phía Nam vào thung lũng Kunar, nơi đây
được xem là sông Kunar.
Dòng chảy của sông Kunar |
Sông Lutkho |
Khyber Pass (Khybet Pass, Khaiber Pass, Khaybar Pass, Khai-bá-nhĩ
Sơn Khẩu开伯尔山口) là cửa ngõ
quan trọng nhất giữa Pakistan với Afghanistan, và cũng là con đường thông
thương giữa Trung Á và Nam Á.
Khyber Pass dài 53km, cửa ngõ Sơn khẩu bắt đầu từ
Landi Kotal (Ngô Lan吴兰)
tại Pakistan, cắt ngang qua dãy núi Safed Koh là đoạn kéo dài của Hindu-Kush xa
nhất về phía Đông-nam
Tọa độ trung
tâm 3405’36’’Bắc
7109’5’’Đông,
cao độ 1.070m.
Safed Koh còn gọi là “núi trắng” (Bạch Sơn白山, white mountain) là dãy núi ở biên giới Pakistan-Afghanistan, cao
độ 4.761m tại núi Sikaram, núi gần sông Kabul, thẳng đứng nổi bật, cao vượt khỏi
những ngọn đồi chung quanh. Khyber Pass nằm
trên nhánh núi tẽ ra của rặng Safed Koh. Bên triền dốc thấp đất đai khô cằn,
thông và những cây thông tuyết trước đây mọc trên núi, bị tàn phá qua những cuộc
chiến đã làm suy yếu đi nguồn tài nguyên về gỗ.
Khyber có nghĩa
là “băng qua dòng sông” cũng có nghĩa là chia cắt. Chỗ hẹp nhất của nó chỉ rộng
ba mét. Phía Bắc của Khyber Pass dốc cao chót vót, của đỉnh núi tuyết Hindu Kush . Khyber Pass là một trong những đường đèo nổi
tiếng nhất trên thế giới và cũng là một trong những con đường quan trọng nhất để
qua lại giữa Afghanistan và Pakistan nên cũng
có một lịch sử khá dữ dội của những bước xâm lăng. Và là con đường chính của mậu
dịch trong nhiều thế kỷ.
Lịch sử của Khyber Pass bắt đầu từ bước chân Đại đế Alexander năm 326 B.C. Sau khi qua cổng này, dùng thuyền đi qua sông Indus để bước vào vùng đất Ấn Độ. Đến năm 900 A.D. Ba Tư, Mông Cổ và Tartar qua Khyber, đem Hồi giáo vào Ấn Độ. Lịch sử kể nhiều về những biến động này.
Khyber trong lịch sử sóng gió của nó không thể kể hết những bước
chân qua. Nó làm nhân chứng cho từ người Aryans đến Persian (Ba Tư) và Greek
(Hy Lạp). Nó cũng nhìn thấy liên tiếp những bước chân Scythians, White Huns,
Seljuks, Tartars, Mongols, Sassanians, Turks, Mughals và Durranis..
Câu chuyện về nó nhiều màu sắc như một quyển tiểu thuyết, những bi kịch, những huy hoàng như chừng một chuyện giả tưởng.
Nó là một chứng nhân im lặng không thể nói lại hết những biến cố do con người đem đến, thật giống như một người lái xe nhàn nhã đi ngang đây tưởng tượng ra như thế.
Pakistan (Ba Cơ Tư Thản巴基斯坦) tọa độ
33°40′Bắc 73°10′Đông, nằm phía Tây bắc Ấn Độ, Tây nam giáp biển Ả Rập. Biên giới
giáp với Iran, Afghanistan
và Trung Quốc. Tên Pakistan
chỉ xuất hiện sau này (1947), thời ngài Huyền Trang nó coi như thuộc miền Bắc Ấn.
Cả ba dãy núi lớn gặp nhau trên cao nguyên Pamirs đều đi ngang
qua Pakistan
với những đỉnh núi cao.
1- Dãy Karakoram, đỉnh cao nhất là K2 (8.611m = 28,244 feet).
2- Dãy Himalaya, đỉnh cao nhất nằm trong Pakistan là Nanga Parbat (8.126m = 26,653
feet).
3- Dãy Hindu-Kush, đỉnh cao nhất là Tirich Mir (7.690 metres = 25,230
feet).
③→ Đi hướng Đông nam hơn 500 dặm, giữa
vùng núi hiểm trở, và đến xứ Gandhara (Kiện-đà-la犍馱羅). Nước này phía Đông giáp sông Indus (sông Tín
Độ信度), đô thành là Purusha-pura (Bố-lộ-sa-bốla布路沙布羅).
Trong nước có nhiều bậc Hiền thánh đến đây như Nala-diên Thiên那羅延天, Vô
Trước無著, Thế Thân世親, Pháp Cứu法救, Như Ý如意, Hiếp Tôn giả脅尊者…
Phía Đông bắc vương thành có bảo đài để bát Phật, về sau
đã đem đi nước khác.
Gandhara
(Gandhāra, Kiện-đà-la犍馱羅Kien-to-lo) là tên của vương quốc cổ Ấn Độ (vương quốc Mahajanapada), ở miền
Bắc Pakistan và miền Đông Afghanistan . Vị
trí chính nằm ở thung lũng Peshawar ,
cao nguyên Potohar (Taxila) và trên Bắc ngạn sông Kabul .
Thành phố chính của nó là Purushapura (nay là Peshawar ),
Takshashila (nay là Taxila) và Pushklavati.
Gandhara dọc
bên bờ sông Kabul ,
nơi cửa sông đổ vào sông lớn Indus. Vùng này là thung lũng Peshawar .
Về sau vùng Gandhara này gồm bên kia sông Indus và Tây bắc Punjab của Pakistan . Nơi
đây là con đường liên lạc giữa Iran
và Trung Á. Biên giới thay đổi theo thời gian lịch sử, đôi khi thung lũng Peshawar
và Taxila thuộc Gandhara. Thung lũng Swat cũng có lúc thuộc vào đó. Nhưng trung
tâm Gandhara luôn luôn là thung lũng Peshawar .
► Pushkalavati là
thủ đô của Gandhara từ thế kỷ thứ 6 trước công nguyên đến thế kỷ thứ 2 sau công
nguyên khi đô thị dời đến Peshawar . Những thánh
tích Phật giáo được giữ lại đây như một nơi hành hương cho đến thế kỷ thứ VII.
Pushkalavati có một ý nghĩa quan trọng với người Aryans, thành phố này nằm
trong thung lũng Peshawar ,
nơi hợp dòng của sông Swat và sông Kabul .
Ba nhánh sông khác của Kabul cũng họp lại tại
đây. Nơi này vẫn còn được gọi là trọng tâm của chốn linh thiêng bất khả xâm phạm.
Người địa phương vẫn còn đem xác chết đến hỏa táng tại đây. Người Aryan đã tìm
thấy một nơi có tính chất địa lý như vậy nơi hợp dòng sông Ganga và sông Yamuna
nên thành lập một thành phố Thánh tên Prayag gần Benares . Đây là một trong những
trung tâm hành hương của Ấn Độ.
► Tây bắc Peshawar (Bạch-sa-ngõa),
phía nam sông Kabul
(Khách-bố-nhĩ喀布尔)
tại Pakistan
(Ba-cơ-tư-thản巴基斯坦)
là cổ thành Purusapura (Bố-lộsa-bố-la布路沙布邏).
► Purusha-pura nay là
Peshāwar (Bạch-sa-ngõa白沙瓦),
tọa độ 34°00′Bắc, 71°30′Đông, cao độ 347m, diện tích 1.257km² nằm ở biên cảnh
Tây bắc của tỉnh, gần Khyber Pass (Khai-bá-nhĩ sơn khẩu開伯爾山口),
đường thông thương giữa Afghanistan và Pakistan.
Sông Swat phát nguyên từ
dãy Hindu-Kush chảy qua thung lũng Kalam và nhập vào sông Kabul
tại Peshawar nơi thung lũng Sarhad , Pakistan .
Sông SWATT |
Di tích Phật giáo Butkara bên bờ sông Swat-Gandhara Sông Kabul |
Năm 327 trước công nguyên, Đại đế A-lịch-sơn (Alexander Grand) đến
Ấn Độ đã làm nơi đây ảnh hưởng nền nghệ thuật Hy Lạp. Kiền-đà-la có thể gọi là
điểm trọng yếu văn hóa Đông Tây, cũng là nơi bắt nguồn của nghệ thuật Phật giáo
từ đây.
Vào thế kỷ thứ nhất, người Đại Nguyệt Chi lập triều đại Quý Sương,
vùng đất này năm 58BC (trước công
nguyên) do vua Kanishka (Ca-nị-sắc-ca迦膩色迦) đời thứ I vương triều Kushan
(Quý Sương貴霜) chọn làm
đô thành.
Vua Ca-nị-sắc-ca迦腻色迦 tín phụng Phật
giáo, kiến tạo nhiều tự viện mĩ lệ trang nghiêm và nhiều tháp Phật, đắp tượng
Phật hùng vĩ nguy nga. Sáng tạo dung hợp nghệ thuật Ấn Độ và Hy Lạp gọi là “nghệ
thuật Phật giáo” và còn được gọi là nghệ thuật Kiền-đà-la.
Huyền Trang chiêm lễ ngôi già lam Ca-nị-sắc-ca và đại tháp cùng
nhiều thánh tích khác. Những ngôi chùa một thời hưng thịnh nhưng khi Huyền
Trang đến chỉ còn một nền đổ nát hoang vu.
Phật Giáo thuộc Nhất thiết Hữu bộ, thịnh hành một thời, khi truyền
sang Trung Quốc gọi là Bắc truyền Phật giáo. Đô thành Bạch-sa-ngõa là nơi trọng
yếu để Phật giáo truyền sang Đông. Xứ này nhiều bậc Thánh hiền, Cao tăng, học
giả nổi tiếng như Nārāyaṇa (Na-la-diên Thiên那羅延天), Asaṅga (Vô Trước無著), Vasubandhu (Thế Thân世亲), Pháp Cứu法救, Vasumitra
(Thế Hữu世友 = Bà-tu-mật婆須蜜 là tổ thứ bảy Thiền Tông), Như Ý如意, Hiếp Tôn giả脅尊者.
Vô Trước無著 ( Asaṅga) sống vào khoảng thế kỷ thứ IV hoặc
thứ V. Ngài là người Puruṣa-pura (Bố-lộ-sa-bố-la布路沙布邏). Ngài
là một Đại luận sư của Ấn Độ, người sáng lập Duy Thức Tông, thiết lập giáo pháp
dưới ảnh hưởng của Nhất thiết Hữu bộ. Tác phẩm quan trọng là Du Già Sư Địa Luận,
Đại Thừa A Tì Đạt Ma Tập Luận, Nhiếp Đại Thừa Luận.
Thế Thân世親 (Vasubandhu)
là em của Vô Trước. Ngài là luận sư xuất sắc của Nhất thiết Hữu bộ, viết bộ luận
A Tì Đạt Ma Câu Xá (Abhidharmakośaśāstra). [Có hai ngài Thế Thân, ngài Thế
Thân tổ 21 Thiền Tông người thành La Duyệt 羅閱城].
Thái tử Siddhartha |
Lokaṣema (Chi Lâu
Ca Sấm支婁迦讖) người Quí Sương (Kushan) là người Gandharan truyền Phật giáo tại
miền Trung Á trong thế kỷ thứ II. Và đã đến Lạc Dương (167-186), Trung Quốc dịch
kinh.
Nơi đây nhiều kinh điển Phật giáo. Tượng Phật đầu tiên được
tạc tại đây. Và đây cũng là thành phố giàu có trên con đường tơ lụa.
Thành phố |
Thánh tích tìm thấy trong tháp của Kanishka ở
|
Những di tích còn lại tìm thấy
trong tháp lớn thời vua Kusan. Nay đã không còn. Tháp này khi ngài Pháp Hiển
năm 400 đi qua mô tả cao 120m, khi ngài Huyền Trang đến năm 623 vẫn còn tồn tại.
Cách chùa Kanishka (Ca-nị-sắc-ca) 100 dặm về phía Đông bắc,
qua sông lớn đến đô thị Puṣkarāvatī (Bố-sắc-yết-la-phạt-để布色羯羅伐底) hoặc
có tên thành Charsadda (Phất-ca-la弗迦羅) là đô thành cũ của Kiền-đà-la.
→ Đô thị Uḍakhāṇḍa (Ô-đạc-ca-hán-đồ烏鐸迦漢荼).
Udaka-khāṇḍa (Utakhanda, Uḍakhāṇḍa)
nay nằm ở phía Bắc ngạn sông Tín Độ (sông Indus ). Đất này nay là phía Bắc
Punjab (Bàng-già-phổ旁遮普), Tây bắc
Rawalpindi .
[St. Martin chỉ định là Ohind (Uhand) bên bờ sông Indus ].
Rawalpindi
(Lạc-ngõa-bình-đệ洛瓦平第) 33°36′00″Bắc
73°02′00″Đông, một cảng quan trọng trên sông Indus. Trên đường trở về Huyền
Trang qua sông này đánh rơi một số kinh sách.
Hầu hết Punjab
là đất phù sa bồi, bao quanh bởi núi phía Bắc. Nhiệt độ mùa hè có thể lên tới
47°C. Nói chung thang nhiệt độ vùng này từ -10° đến 50°C.
Bộ sưu tập cuộc đời Đức Phật tại Gandhara
Giấc mộng của Hoàng hậu Ma Da |
Đản sinh |
Đời sống trong cung |
Vượt thành xuất gia |
Khổ hạnh |
Chuyển Pháp Luân |
Niết Bàn |
[Đi qua 08 nước]
1- Udyana (Ô-trượng-na) → 2- Baltit (Bát-lộ-la) →
3- Taxila (Đát-xoa-thỉ-la) → 4- Jhelum (Simhapura, Tăng-ha-bổ-la) → 5- Hazara
(Urasa, Ô-thứ-thi) → 6- Kashmir (Ca-thấp-dila) → 7- Punch (Bán-nô-tha) → 8-
Rajauri (Rajapura, Át-la-xà-bổ-la).