Thứ Tư, 23 tháng 5, 2012

II-3 HÀNH TRÌNH QUA MIỀN TRUNG Á

Xem trang trước (Ha Mi đến Thiên Sơn)
(Nước Kyrgyzstan, Kazakhstan)

1-     Hồ Issyk-Kul (Nhiệt Hải) → 2- Tokmak (Tố Diệp) → 3- Thiên Tuyền → 4- Taraz (Đát-la-tư) → 5- Sayram (Bạch Thủy) → 6 -Nejkend (Nô-xích-kiện) → ...


Đoàn Huyn trang vượt Lăng Sơn, đi trong đường núi 400 dm đến h Issyk-Kul (Đại Thanh Trì大清池).
H này có tên Nhit Hi (Hot sea) vì cao độ 1.600m nhưng nước không đóng băng trong khi núi non chung quanh đóng băng tuyết vĩnh hng. Ngài Huyn Trang gi là “Thanh Trì” vì h nước trong xanh.
Chu vi hơn ngàn dm, phía Đông tây dài, Nam bc hp. Bn mt đều da vào núi, nhiu sông sui đổ ra h này. H sc nước xanh đen, v mn đắng, sóng ln cao hàng trượng.

Đại Thanh Trì nay là hồ Y-tái-khắc伊塞克, phía Tây bắc Cát-nhĩ-cát-tư-tư-thản吉爾吉斯斯坦 (Kyrgyzstan).
Issyk Kul là hồ trên núi, lớn thứ nhì trên thế giới (sau hồ Titicaca). Tọa độ 42°30′Bắc 77°30′Đông, dài 182km rộng 60km, sâu khoảng 270m, chu vi bờ hồ khoảng 688km, gồm 118 dòng sông đổ vào hồ, hai sông lớn nhất là sông Djyrgalan và sông Tyup.
Phía Nam bờ hồ là dãy núi Tian Shan (Thiên Sơn) hùng vĩ. Hồ Issyk Kul là điểm dừng trên con đường tơ lụa, lộ trình trên đất liền từ miền Viễn Đông đến châu Âu.

Hoàng hôn trên hồ Issyk Kul
Hồ Issyk Kul chụp từ vệ tinh
tháng 9/1992

Đi men theo hồ về phía Tây bắc 500 dặm đến thành Tố Diệp素葉城. Cây cối ít, khí hậu lạnh. Ngoài thành, Huyền Trang gặp vị thống lãnh Tây Đột Quyết là Diệp Hộ khả hãn. Diệp Hộ cho người đưa Ngài về thành nghỉ ngơi trước. Đất nước này đang thời kỳ cường thịnh, nhưng khoa học, văn học và luân lý không rành.
Ba ngày sau, Khả Hãn đi săn về, làm tiệc khoản đãi Huyền Trang. Khi Huyền Trang còn cách lều Khả hãn mươi bước, Khả hãn bước ra khỏi màn trướng lễ bái. Sau tiệc, thỉnh Huyền Trang thuyết pháp. Khả hãn hoan hỉ tin nhận và rất quý trọng Huyền Trang.
Lưu giữ Huyền Trang lại nhiều ngày, ông nói với Ngài: Pháp sư không cần đi Ấn Độ, khí hậu nơi đó rất nóng, dung mạo pháp sư, e rằng đến đó sẽ bị phơi nắng đen đủi, dung nghi không còn dễ nhìn nữa. Huyền Trang đáp: Tôi đã quyết tâm đến đó cầu Phật pháp.
Khả hãn thấy thái độ Huyền Trang kiên quyết nên không lưu giữ nữa, cho một người từng sống tại Trường An đem thư giới thiệu đến các nước lân cận và xuất một đội binh hộ tống pháp sư đến nước Kapisa (Ca-tất-thí迦畢試國, thuộc A-phú-hãn阿富汗). Vua đích thân cùng tùy tùng đưa tiễn Huyền Trang mười dặm.

Nhưng chỉ trong năm này vua bị ám sát, đất nước tan rã. Khi Huyền Trang đến là một thị trấn huy hoàng, nay chỉ còn là đống đất vụn.
Tố Diệp素葉 còn gọi là Toái Diệp碎葉 nay là Tokmok, Tokmak, Thác-khắc-mã-khắc托克馬克 là thành phố phía Bắc Kyrgyzstan (Cát-nhĩ-cát-tư-tư-thản吉爾吉斯斯), tọa độ 42°50′Bắc 75°17′Đông, cao độ 816m, nằm phía Đông thủ đô Bishkek (Bỉ-thập-khải-khắc比什凱克).
Nhà thơ Lý Bạch đời Đường sinh trưởng ở vùng Toái Diệp này.
Bishkek (Pishpek, có lúc được đổi tên là Frunze [Phục Long Chi伏龍芝]), tọa độ 42°52′29″Bắc 74°36′44″Đông. Bishkek nằm phía Bắc ven rặng Ala-Too (A-lạp-đa阿拉多), một nhánh của rặng Tien Shan (Thiên Sơn), cao 4.800m đã làm cho thành phố thêm hùng vĩ. Phía Bắc của thành phố, một thảo nguyên phì nhiêu nhấp nhô kéo dài đến bang Kazakhstan kế cận.  Sông Chu (楚河) dẫn nước cho thành phố này. Bishkek là trạm nghỉ trọng yếu trên con đường tơ lụa.
Những rặng núi tuyết phủ quanh năm thường dùng cụm từ “Ala-Too” để diễn tả, dù rằng ở Kyrgyz cụm từ này có nghĩa “nhiều màu sắc”. Tuyết phủ ở cao độ 3.600m trở lên.
Dãy Terskey Ala Too (Alatau) còn gọi là “shady mountains” nằm phía Nam bờ hồ Issyk Kul. Dãy Kungey Ala Too (Alatau) gọi là “sunny mountains” nằm dọc phía Bắc bờ hồ Issyk Kul, làm thành biên giới giữa Kyrgyzstan với Kazakhstan.
[Nhìn trên bản đồ Kyrgyzstan sẽ thấy rõ, khi mặt trời lên, bóng núi dãy Terksey Ala Too sẽ hắt xuống thành phố, nên gọi là “núi hắt bóng” và dãy Kungey Ala Too đón nắng mặt trời]

Ala-Too
Kyrgyzstan (Kirgizia, Kirghizia, Cát-nhĩ-cát-tư-tư-thản吉爾吉斯斯坦) là một quốc gia trong miền Trung Á, đất đai bao bọc bởi những dãy núi. Bắc giáp Kazakhstan, Tây giáp Uzbekistan, Tây nam giáp Tajikistan, Đông nam giáp Trung Quốc.
Kyrgyzstan có nghĩa là “miền đất của bốn mươi bộ tộc”.
Kyrgyz có mặt từ năm 201BC (trước công nguyên). Vào thế kỷ 12 Trung quốc miêu tả con người Kyrgyz là tóc đỏ mắt xanh.
Sông Chu và rặng Turkey

Phía tây Tố Diệp Thủy có khoảng mươi thành nhỏ đơn lẻ. 
Đi tiếp tục theo hướng Tây 400 dặm đến Thiên Tuyền千泉. Thiên Tuyền có nghĩa là một ngàn suối nước (Bình Tân屏津Bing-yul), mùa hạ Khả hãn đến nơi đây tránh nóng. Thiên Tuyền chu vi khoảng hơn hai trăm dặm, mặt Nam là Tuyết Sơn, ba mặt kia là bình nguyên. Nguồn nước sung túc, đất đai phì nhiêu. Nơi đây có lệnh cấm sát hại nai, nên có nhiều đàn nai chạy nhảy, đeo lục lạc.
Theo “Thương mang Linh Sơn” Thiên Tuyền nay là Khố-mục-a-lôi-khắc-khố库穆阿雷克库.
Theo “Huyền Trang Niên Phổ”, Thiên Tuyền ở khoảng Taraz và Bishkek.
Thiên Tuyền nằm khoảng chân núi phía Bắc rặng Karatau (Cát-nhĩ-cát-tư吉尓吉斯山), giữa sông Chu và sông Tích Nhĩ.
BẢN ĐỒ VÙNG THIÊN TUYỀN

  Từ thành Tố Diệp đến nước Yết-sương-na羯霜那, có một khu vực đất rộng được gọi là Tốt Lợi窣利.
Tốt Lợi窣利 : Dân tộc Tốt Lợi và ngôn ngữ Tốt Lợi窣利. Vương tộc các nước đều là dòng dõi Nguyệt Chi, cùng họ Chiêu Vũ昭武. Vốn là Đại Nguyệt Chi cư trú ở thành Chiêu Vũ phía Bắc dãy Kì Liên Sơn. Sau bị Hung Nô đánh phá, dời nước đến phía tây Thông Lĩnh葱嶺 kiến lập nước Nguyệt Chi.
Đến đời Tùy phân ra làm chín nước: Khang quốc康國, An quốc安國, Sử quốc史國, Tào quốc曹國, Thạch quốc石國, Mễ quốc米國, Hà quốc何國, Hỏa Tầm火尋, Mục quốc穆國. Trung Quốc gọi là Chiêu Vũ cửu tính. Nơi đây hơn phân nửa là thương nhân, hoạt động thương mại nên ảnh hưởng tính cách. Họ tham tài hiếu lợi, chẳng chuộng lễ nghĩa, giảo hoạt dối trá, chỉ biết tích chứa tài vật, thu nhận như kẻ bần hàn.

Từ phía tây Thiên Tuyền đi 450 dặm đến thung lũng nằm giữa đồi xanh, đô thị Talas (Đát-la-tư呾罗斯, Tháp-lạp-tư塔拉斯), đất đai khí hậu ôn hòa, có sông chảy qua, các nước buôn bán nơi đây.  
Sông Talas


Xem hai bản đồ bên dưới để hiểu rõ sự tương quan giữa Talas và Taraz. Cả hai cùng nằm bên bờ sông Talas. Lúc ngài Huyền Trang đi qua Talas, thì Talas ở vị trị Dzhambul ngày nay.
► Taraz hiện nay là một thành phố và là trung tâm của tỉnh Zhambyl nước Kazakhstan (Cáp-tát-khắc-tư-thản哈薩克斯坦) trước đây Taraz gọi là Talas, Dzhambul và Aulie-Ata. Taraz nằm ở phía Nam của Kazakhstan, gần biên giới Kyrgyzstan, trên sông Talas (Taraz River). Là một trong những thành phố lâu đời nhất tại Kazakhstan, Taraz nổi tiếng trong lễ tổ chức 2000 năm tuổi, được UNESCO công nhận vào năm 2001. Ngày pháo đài được xây dựng vào năm 36 trước công nguyên. Thành phố được biết với tên “Talas” vào năm 568, thời trung cổ thành phố là trung tâm giao dịch trên con đường tơ lụa. Năm 629 Huyền Trang đi ngang đây thành phố mang tên Talas.
►Talas hiện nay là một đô thị nhỏ ở Tây bắc Kyrgyzstan, vị trí ở thung lũng dài giữa hai ngọn núi, tọa độ 42°31′Bắc 72°14′Đông.

Đi tiếp về hướng Tây hơn mười dặm gặp một thành nhỏ, có ba mươi nhà, gọi là tiểu cô thành小孤城. Dân cư trong thành là người Trung Quốc, bị Đột Quyết bắt đem đến đây. Tuy sống nơi xa lạ nhưng họ rất đoàn kết, tuy bên ngoài trang phục giống Đột Quyết nhưng họ cương quyết bảo tồn truyền thống ngôn ngữ, lễ nghĩa, phong tục. Thấy Pháp sư Huyền Trang từ cố quốc đến, họ mừng như gặp người nhà, nhiệt tình đón tiếp.
Đi về hướng Tây nam 200 dặm gặp đô thị Bạch Thủy白水.
Đô thị Bạch Thủy nay là Sayram thuộc bang Kazakhstan (Cáp-tát-khắc-tư-thản哈薩克斯坦).
Sayram
Sayram cách Chimkent 10km về phía Đông, Sayram là một pháo đài hùng vĩ, hiện nay đã đổ nát, nó là một trong những thành phố nổi tiếng của vùng Syr Darya.
(theo Akhil Bakshi) Năm 1989 bên ngoài khu vực Sayram, các nhà khảo cổ học tình cờ phát hiện được một thiền viện. Họ tìm thấy được một đèn dầu ở thế kỉ XII. Sayram đã có cách đây mấy ngàn năm, nơi tập trung các tri thức.
Chimkent (Kì-mỗ-khẳng-đặc奇姆肯特), Chimkent là tiếng Uzbek và Shymkent là tiếng Kazakh. Chim (Shym) có nghĩa là đồng cỏ và Kent là đô thị.
Chimkent ở phía Nam Kazakhstan, tọa độ 42°303Bắc 69°573Đông, gần biên giới Kazakhstan, là một trung tâm văn hóa nổi tiếng. Shymkent là giao lộ các lục địa, nơi dừng chân của các đoàn lữ hành trên con đường tơ lụa. Đó là nơi những trục giao thông chính của châu Âu, Trung Quốc và Ấn Độ gặp nhau. Những thành phố cổ Hazrat-e Turkestan và Sayram trên con đường tơ lụa cũng gần đó.
Đi tiếp hướng Tây nam 200 dặm đến đô thị Kuyu (chien-cheng, Cung Ngự恭御).
Hai đô thị này đất đai phì nhiêu, cây cối sum sê. Đều thuộc khu vực của Tốt Lợi.


Hướng Nam 50 dặm gặp Nejkend (Nô-xích-kiện笯赤建). Chu vi hơn ngàn dặm. Sản xuất nho quý, cây cỏ hoa trái tốt tươi. Có cả trăm thành ấp, mỗi thành đều có cương vực, nhưng đều trực thuộc Nô-xích-kiện.
Nô-xích-kiện笯赤建 nay là Hãn-a-ba-đức汗阿巴德 thuộc Tashkent (Tháp-thập-can塔什干). [Linh Sơn Thương Mang]
Theo Nhuế Truyền Minh thì Nô-xích-kiện thuộc Kì-mỗ-khẳng-đặc奇姆肯特 (Chimkent)




HÀNH TRÌNH QUA MIỀN TRUNG Á
(Nước Uzbekistan, Tajikistan)
1- Tashkent (Giả Thời) → 2- Fergana (Phế Hãn) → 3- Ura-Tyupe (Tốt-đổ-lợi-sắt-na) → 4- sa mạc Kyzyl-Kum → 5- Samarkand (Táp-mạt-kiến) → ...

Đi tiếp 200 dặm đến xứ Giả Thời赭時 (Che-shih) nay là Tashkent (Tháp-thập-can塔什干) thủ đô của Uzbekistan. Thời nhà Đường gọi là Thạch Quốc石國. Đông tây hẹp, Nam bắc dài. Đất đai khí hậu giống Xích-kiện, vùng đất thuộc Đột Quyết kiểm soát.

TASHKENT - thành phố đá (stone city)
Ban đầu Tashkent là một ốc đảo của sông Chirchik, gần chân núi Golestan, tọa độ 41°16′Bắc 69°13′Đông. Được biết với tên Chach. Đời Hán được biết với tên Beitian (Bin-kāth), đô thị của Kangju cổ xưa (Khang Cư康居). Tashkent còn được gọi là thành phố đá (stone city). Về sau nó phát triển thành trung tâm thương mại quan trọng trên con đường tơ lụa. Các  đoàn lạc đà từ Trung Á, Ấn Độ, Trung Quốc, châu Âu đều đi ngang Tashkent.
  Từ đây về hướng Đông nam hơn 1.000 dặm đến nước Phế Hãn沛捍. Phế Hãn沛捍 đời Hán là nước Đại Uyển, nơi sản sanh ra ngựa Hãn huyết (mồ hôi đỏ), Hán Vũ Đế gọi là thần mã. Xứ này chu vi bốn ngàn dặm, núi bao bọc bốn bề. Khí hậu lạnh, người tính dũng mãnh. Ngôn ngữ khác với các nước khác.
Phế-hãn nay là thành phố Fergana. Fergana (Farghana, Phí-nhĩ-can-nạp費爾干納) tọa độ 40°24′Bắc 71°46′Đông, ở phía Đông Uzbekistan, rìa phía Nam thung lũng Fergana, miền nam Trung Á, nó cắt ngang qua biên giới của Kyrgyzstan, Tajikistan và Uzbekistan.
Fergana cách Tashkent 420km về phía Đông, khoảng 75km về phía Tây Andijan. Đây cũng là điểm xa nhất mà dấu chân A-lịch-sơn Đại đế (Alexander the Great) đặt đến.

Qua sông Syr Darya
Lại đi hướng Tây hơn 1.000 dặm đến xứ Sutrishna (Tốt-đổ-lợi-sắt-na窣堵利瑟那), chu vi một ngàn bốn trăm năm mươi dặm. Phía Đông giáp sông Diệp Hà葉河. Sông Diệp Hà (sông Syr-Darya) phát nguyên từ Bắc Thông Lĩnh chảy về hướng Tây bắc. Nước cuồn cuộn chảy xiết. Phong tục khí hậu giống Giả Thời (Tashkent). Có vương phủ của Đột Quyết.
Sutrishna nay là Ura-tyupe (Uro-teppa) thuộc Tajikistan, nằm ở phía Tây lòng chảo Fergana. Ura-tyube là một trong những đô thị cổ nhất miền Trung Á, được thành lập hơn 2.500 năm.
Từ Tashkent đến sông Syr-Darya (Tích Nhĩ錫爾) khoảng 65 km.
Sông Syr-Darya
Sông Syr-Darya
Tên sông Syr-Darya có nguồn gốc từ tiếng Ba Tư, đôi khi còn gọi là Jaxartes hay Yaxartes từ tên gọi theo tiếng Hy Lạp cổ đại và đã được sử dụng rất lâu ở phương Đông, sông hình thành biên giới tự nhiên giữa UzbekistanKazakhstan.
Con sông này bắt nguồn bằng hai đầu nguồn trong dãy Thiên Sơn ở Kyrgyzstan và đông Uzbekistan, chảy trong khoảng 2.220km (1.380
Sông chảy qua phía Bắc cao nguyên Pamir, phía tây Thiên Sơn và thung lũng Fergana rồi hoà nhập vào biển Aral (Hàm Hải = biển nước lợ).
Tháp bên bờ Bắc sông Amu Darya
Sông Amu-Darya
Sông Amu-Darya (Sông Chakshu), Darya có nghĩa là “biển”.
Amu Darya là một trong những sông dài nhất miền Trung Á. Nó hình thành bởi hợp dòng của sông Vakhsh và sông Panj (Pyandzh). Dòng chảy của nó về hướng Tây bắc đến phía Nam bờ biển Aral. Tổng chiều dài của nó là 2.400 km. Trong thời Cổ đại, con sông này có tên gọi là Oxus theo tiếng Hy Lạp. Trung quốc âm là Phược-sô縛芻.
Nó bắt nguồn từ dãy Pamir trên lãnh thổ Afghanistan với tên sông Pamir, chảy theo hướng Đông-tây cho tới Ishtragh, tại đây nó quay trở lại theo hướng Bắc và sau đó chảy theo hướng Đông bắc - Tây nam tới Hindu Kush. Đến đây nó tên Panj, sau đó gần như là theo hướng đông-tây và tạo ra biên giới tự nhiên giữa Afghanistan và Tajikistan, sau đó tạo ra biên giới giữa Afghanistan và Uzbekistan trong khoảng 200km, vượt qua Termez và cầu hữu nghị Afghanistan-Uzbekistan. Nó chảy theo biên giới của AfghanistanTurkmenistan trong khoảng 100 km nữa trước khi chảy vào lãnh thổ Turkmenistan tại Kerki.

Sông Amu-Darya
Sau khi rời vùng núi cao, sông chuyển hướng về Tây-bắc băng qua vùng đất Turan rộng lớn khô cằn, nơi nó tạo thành ranh giới giữa sa mạc Kara-Kum卡拉库姆 (thuộc Turkmenistan) hướng Tây-nam và sa mạc Kyzyl-Kum克孜勒库姆 (thuộc Uzbeskistan) hướng Đông-bắc. Sông Amu đã mất rất nhiều lượng nước cho việc tưới, bốc hơi và thấm vào lòng đất.
Từ  đây nó có tên gọi  Amu-Darya (Sông A-mỗ阿姆), nó chảy ngang qua Turkmenistan theo hướng Đông-nam Tây-bắc, vượt qua Turkmenabat土库曼纳巴特 và tạo ra biên giới của TurkmenistanUzbekistan tại Khalkabad. Sau đó nó phân ra thành nhiều sông nhánh (đã từng có thời gian tạo ra các đồng bằng châu thổ và đổ vào biển Aral咸海), vượt qua Urgench乌尓根奇, Dashoguz达绍古兹 và các thành phố khác nhưng ngày nay nó không chảy nổi tới biển Aral nữa và biến mất trong sa mạc.
Đi về hướng Tây Bắc vào một sa mạc lớn (sa mạc Kyzyl-Kum ở giữa sông Tích Nhĩ錫爾河 (Syr-Darya) và sông A-mỗ阿姆 (Amu-Darya), nơi đây tuyệt không nước cỏ, cát là cát màu đỏ ối, cương vực không biết đâu là đâu, chỉ nhắm về hướng ngọn núi cao, theo xương rải rác trên đường mà đi.
Sa mạc Kyzyl Kum (Qyzylqum) là sa mạc lớn thứ 11 trên thế giới. Kyzyl-Kum có nghĩa là “cát đỏ”, nó nằm ở Trung Á, bị chia cắt bởi các nước Kazakhstan, Uzbekistan và một phần nước Turkmenistan. Diện tích khoảng 298.000km2. Kyzyl-Kum ở độ cao 300m, hầu hết là cồn cát, cũng có vài ốc đảo.
Sa mạc Kyzyl-Kum
Thú nuôi của nơi đây là lạc đà Bactrian Camels
Đi 500 dặm đến Samarkand (Táp-mạt-kiến颯秣建, thuộc Ô-tư-biệt-khắc-tư-thản) còn gọi là Tát-mã-nhĩ-hãn撒馬爾罕. Chu vi một ngàn sáu trăm bảy mươi dặm, Đông tây dài, Nam bắc hẹp. Khí hậu ôn hòa, binh mã hùng dũng. Có nhiều hàng hoá trân bảo đến từ các nước. Công nghệ cao. Quốc vương anh dũng, binh cường ngựa giỏi, binh sĩ cang cường coi cái chết như sự trở về nhà (Kiến tử như quy見死如歸). Nhiều nước người Hồ chung quanh lấy Táp-mạt-kiến làm chuẩn mực về chế độ lẫn hành vi.
Trung quốc thời đó gọi đây là Khang quốc. Lúc Huyền Trang đến, nước đã bỏ Phật giáo theo Hỏa giáo (Agni) nên Quốc vương tiếp rất lãnh đạm. Khi Huyền Trang giảng về Nhân quả báo ứng và Phật pháp công đức, vua nghe xong rất vui mừng thỉnh Huyền Trang cho thọ giới. Vua hạ lệnh mở hội độ người làm tăng, trăm họ từ đây mới bắt đầu tin Phật, trùng tu chùa, chấn chỉnh nền Phật giáo trong nước.
Nơi đây là cửa ngõ giao thông, từ Trung quốc muốn qua Iran (Y-lan, Ba Tư) đều ghé qua đây, và ngược lại. Phong tục, chữ viết giống như Ba Tư. Nơi đây bắt đầu khu vực ảnh hưởng Ba Tư.

Samarkand

Uzbekistan
Samarkand có gốc từ tiếng Sanskrit, Samara Khanda. Khanda (Kanda) có nghĩa là thành phố. Nghĩa này có thể tìm thấy trong các tên Tashkent (Taksha Khanda), Yarkand, Penjikent…
Và những tên các nước như Uzbekistan, Tajikistan, Kazakhstan, Turkmenistan (Turkestan) tận cùng bằng stan cũng có từ nguyên là sthana (nơi chốn).
Samarkand (Samarqand) ngày xưa là một ốc đảo nằm bên cạnh sa mạc Kyzyl-Kum, giữa hai rặng núi. Samarkand là thành phố lớn thứ hai của bang Uzbekistan và là thủ đô của tỉnh Samarqand. Nó nằm ở thung lũng sông Zarafshan.
Samarkand toạ độ 39°39′15″Bắc 66°57′35″Đông, cao độ 702m, nó được công nhận là thành phố có 2.700 năm tuổi.
Samarkand trong Ngụy Thư魏书 gọi là Tất vạn cân悉万斤, Tùy Thư隋书 gọi là Khang Quốc康国. Tân Đường Thư gọi là Tát-mạt-kiến薩末建. Da-luật-sở-tài耶律楚材 nhà Nguyên trong Tây Du Lục西游录 gọi là Tầm-tư-can尋思干...
Samarkand là một trong những thành phố cổ trên thế giới, một thành phố phồn vinh trên con đường tơ lụa giữa Trung Quốc và châu Âu. Có một thời, Samarkand là thành phố lớn nhất miền Trung Á. Được thành lập khoảng năm 700BC (trước công nguyên), nó là thủ đô của Sogdian (thuộc Ba Tư). Trong chiều dài lịch sử, có lúc thành phố hoàn toàn bị quên lãng, rồi phục hưng và đến thế kỷ 16 khi thủ đô dời về Bukhara thì một lần nữa nó lại bị suy tàn. Trải qua những biến động lịch sử về sự thay đổi các triều đại từ Alexander the Great, the Arabic Conquest, Genghis-Khan (Thành Cát Tư Hãn)… nền văn hóa Samarkand phát triển và pha trộn các nền văn hóa của Iranian, Indian, Mongolian và một chút văn hóa của Tây và Đông phương. Sự tráng lệ huy hoàng của thành phố có một sức thu hút lạ thường, được các thi nhân và sử gia trong thời xưa gọi là : “Rome của phương Đông, cái đẹp của xứ sở này là viên ngọc của thế giới Hồi giáo phương Đông”.
Về phía Đông nam đến nước Nhĩ-mạt-hạ耳秣賀. Chu vi bốn trăm năm mươi dặm, Đông tây hẹp, Nam bắc dài. Có nhiều sông, phong tục như Táp-mạt-kiến (Samarkand).
Đi về hướng Bắc đến Kiếp-bố-đãn-na劫布呾那, nhà Đường gọi là nước Tào曹國. Đông tây dài, Nam bắc hẹp. Phong tục giống Táp-mạt-kiến.
Theo Huyền Trang Niên Phổ ghi lại lời Biện Cơ: “Thư hành书行 là đến tận nơi, còn Thư chí书至 là nghe kể ghi lại. Nên hai địa danh này là nghe ghi lại. ĐĐTVK ghi rằng “Từ Táp-mạt-kiến đi 300 dặm đến Yết-sương-na”, tức những nước nhỏ ở khoảng giữa đó, Ngài nghe kể mà ghi”.
Hướng Tây 300 dặm tới xứ Khuất-sướng-nhĩ-ca屈霜你迦, nhà Đường gọi là nước Hà何國.
Khuất-sướng-nhĩ-ca屈霜你迦 (Kusanika, Khố-sa-ni-á库沙尼亚) ngày nay cách Tát-mã-nhĩ-hãn撒马尔罕 (Samarkand) 75km về phía Tây bắc.
Hướng Tây hơn 200 dặm đến kinh đô  Yết-hãn喝捍 (Kharghan), nhà Đường gọi là Đông An東安國.
Yết-hãn喝捍 nay là Hợp-trác-mộc-bát-nhĩ哈扎木博爾 thuộc Uzbekistan.
[Những nước trên, Huyền Trang nghe kể lại ghi, nên theo Từ Ân, không ghi trong cuộc hành trình, hơn nữa, những địa danh vừa nêu, chưa định vị được trên bản đồ hiện nay, nhưng theo sự mô tả vùng đất đó ở giữa Samarkand và Bukhara nên chỉ có thể định được hiện thuộc châu Navoiy (Nạp-ốc-y納沃伊). Chúng tôi chờ tìm được tài liệu sẽ bổ sung về sau. TC]
- Khuất-sướng-nhĩ-ca
- Yết-hãn



HÀNH TRÌNH QUA MIỀN TRUNG Á

Thứ Ba, 1 tháng 5, 2012

II-2. Ha Mi đến dãy Thiên Sơn

Xem trang trước (Trường An đế Ngọc Môn Quan)

TỪ HA MẬT (Ha-mi) ĐẾN VƯỢT DÃY THIÊN SƠN

1- Y Ngô
2- Cao Xương (Thổ-lỗ-phồn)
3- Yên-kì (A-kì-ni) 
4- Kucha (Khố-xa)
5- Bc Lc Già  

Vượt sa mạc 800 dặm Ngài qua được chặng đường hiểm nghèo thứ nhất. Ngài trải qua mười ngày chỉ có mình với con ngựa gầy nương nhau, không bóng người, hơn bốn đêm năm ngày không giọt nước thấm môi, những nguy nan không bút nào tả hết.
ĐƯỜNG ĐI TỪ NGỌC MÔN QUAN → PHONG HỎA ĐÀI → DÃ MÃ ĐẠI TUYỀN → Y NGÔ
Y NGÔ 伊吾 (xưa là Y Châu伊州).
Ngài đến nước Y Ngô (nay là huyện Hami (Cáp Mật 哈密- TânCương 新疆 Xīnjiāng). Tại chùa Đại Giác, có ba vị sư người Hán nghe có người từ cố hương đến,chạy ra ôm chầm lấy HuyềnTrang mà khóc.Vua nước Y Ngô và triều thần đến chùa tham kiến và thỉnh Ngài vào cung cúng dường. 
Huyền Trang ở lại Y Ngô hơn mười ngày.

Y Ngô thời Hán là cửa ngõ vào Tây Vực. Đứng trên mảnh đất này không khỏinghĩ tới Trương Khiên, người khai mở con đường thông thương với Tây Vực, khiến cho nền văn hóa Đông Tây giao lưu. Thời Hán Vũ đế, cương vực phíaTây Trung Quốc tới Lan Châu. Trương Khiên khai thông được đường quaTây Vực, mở đầu cho Trung Quốc biết tới phương Tây qua con đường mệnh danh là “con đường tơ lụa” nổi tiếng.

Hami gồm một thành phố Kumul 哈密市, một huyện Yiwu 伊吾县 và khu tự trị
Barkol Kazakh巴里坤哈萨克自治县.

Vương Duy có bài về Y Châu:
伊州歌 Y CHÂU CA
清風明月苦相思 Thanh phong minh nguyệt khổ tương tư
蕩子從戎十載餘 Đãng tử tùng nhung thập tải dư
征人去日殷勤囑 Chinh nhân khứ nhật ân cần chúc
歸雁來時數附書 Quy nhạn lai thì số phụ thư.
KHÚC HÁT Y CHÂU
Gió mát trăng thanh nhớ khôn cùng
Đã mười năm tùng quân ruổi rong
Ngày đi người đã ân cần nhắn,
Nhạn về xin gởi đôi lời thăm.

Theo lời thỉnh mời của vua nước Cao Xương, Ngài đi về hướng Nam, qua những bãi cát có đá nổi cao, đi trong sáu ngày mới đến kinh đô Bạch Lực白力城 (nay là Thiện Thiện鄯善) thuộc nước Cao Xương.
những bãi cát có đá nổi

Tư liệu - DBHT
Thành cổ Giao Hà nằm trên đường từ Cao Xương đến Yên Kỳ

駱賓王 Lạc Tân Vương có thơ về thành cổ Giao Hà rằng:
交河浮絕塞 Giao hà phù tuyệt tái,
弱水寖流沙 Nhược thủy tẩm lưu sa.
寧知心斷絕 Ninh tri tâm đoạn tuyệt,
夜夜泣胡笳 Dạ dạ khấp hồ già.
 Giao Hà nổi tận ải xa
Nhược Thủy đầm đìa Lưu Sa
Lặng biết lòng đau đứt đoạn
Đêm đêm nức nở Hồ già.1
1 Một loại sáo của người Hồ.

Lâu Lan樓蘭Loulan (pinyin: Lóulán) được thành lập vào thế kỷ thứ II BC, vị trí 40°55′Bắc, 89°9′Đông, ở rìa Đông bắc sa mạc Taklamakan. Năm 77BC Trung Quốc gọi là Thiện Thiện鄯善 Shanshan, một đô thị ở góc Tây bắc hồ Lop Nur (La-bố-bặc羅布泊).
Di chỉ Lâu Lan
Từ Thiện Thiện đi đến Cao Xương qua một vùng núi đỏ là Hoả Diệm Sơn. Trong Tây Du Ký kể về đoạn này phải mượn quạt ba tiêu của Thiết Phiến công chúa.

Sau này Sầm Tham làm bài thơ tả nơi đây (Sầm Tham thi nhân nhà Đường, làm qua thường được cử ra biên ải, nên có những bài thơ nói đến những đoạn đường ông đến nhậm chức) 
岑參《經火山》
赤焰燒虜云 Xích diệm thiêu lỗ vân,
炎氛蒸塞空 Viêm phân chưng tái không.
不知陰陽炭 Bất tri âm dương thán,
何獨燃此中 Hà độc nhiên thử trung.
我來嚴冬時 Ngã lai nghiêm đông thời,
山下多炎風 Sơn hạ đa viêm phong.
人馬盡汗流 Nhân mã tận hãn lưu,
孰知造化功 Thục tri tạo hoá công.
Lửa đỏ ngút tận trời,
Khí nóng tỏa biên ải,
Sao củi than âm dương,
Chỉ riêng đốt nơi này.
Ta đến lúc trọng đông,
Gió nóng phủ chân núi,
Người ngựa đẫm mồ hôi,
Ai biết được hóa công.


→ CAO XƯƠNG高昌 Gaochang (Turpan[1], Thổ-lỗ-phồn吐魯番, Tolophan, xưa là Tây Châu西州).
Từ Thiện Thiện đến Tolophan (Thổ-lỗ-phồn) qua vùng núi đỏ gọi là Hỏa Diệm Sơn, qua Thiên Phật Động mới đến trung tâm Tolophan.
Turpan (Tolophan) nằm giữa vĩ tuyến 42015’ đến 43035’ Bắc, kinh tuyến 88029’ đến 89054’ Đông.
[1] Turpan có nghĩa là vùng đất thấp.


Thành cổ Cao Xương
Cao Xương là thành phố ốc đảo thuộc bồn địa (lòng chảo) Thổ-lỗ-phồn. Vùng đất này nóng vì do địa thế quá thấp, điểm thấp nhất của lòng chảo là 154m dưới mực nước biển, chỉ sau biển chết -392m.
Mặt Bắc là dãy Thiên Sơn quanh năm đầy tuyết, giữa là vùng núi lửa nằm ngang kéo dài 100m, ngọn cao nhất 815m. Người ta thường gọi đó là Hồng Sơn (núi đỏ), Xích Thạch Sơn赤石山 (núi đá đỏ), Hỏa Sơn 火山 (núi lửa). Mùa nắng khí nóng tỏa ngùn ngụt bốc lên cao, nên nhà thơ Sầm Than tả rằng trong lòng núi đỏ đó là cả lò than khổng lồ đang đốt cháy.

Cao Xương rất nóng vào mùa hè, ít mưa và rất khô. Thời gian dài không có sương và giông, vùng trung tâm nhiệt độ nóng nhất là 470C.

Hậu Hán Thư - Tây Vực Chí có ghi:
自敦煌西出玉門, 陽關, 涉鄯善, 北通伊吾千餘里, 自伊吾北通車師前部高昌壁千二百里
(Từ Đôn Hoàng muốn đi Tây Vực thì ra khỏi Ngọc Môn Quan, Dương Quan, đến Thiện Thiện đi về hướng Bắc thẳng đến Y Ngô hơn ngàn dặm. Rồi từ Y Ngô thẳng đến thành Cao Xương chừng một ngàn hai trăm dặm).

Khi Ngài đến nhằm lúc ban đêm, vua Khúc Văn Thái đích thân
cầm đuốc đứng đón Ngài, ân cần lưu giữ Huyền Trang lại. Hơn mười ngày Huyền Trang muốn lên đường, nhưng vua không thuận.

Vua bảo: “Đệ tử ngưỡng mộ Pháp sư lâu nay, muốn lưu lại đây cúng đường. Núi Thông Lĩnh có thể dời, ý này quyết không đổi.”
Huyền Trang nói rằng: “Huyền Trang đi về Tây cầu pháp, pháp cầu chưa được, chẳng thể dừng ở giữa đường, nên mới xin từ biệt ra đi, xin Đại vương thẩm xét.”

Quốc vương bảo: “Đệ tử đương nhiên đâu dám cản trở, chỉ vì bổn quốc chưa có Tôn sư, nên mới xin Pháp sư lưu lại dẫn đường cho chúng sanh còn mê muội.”

Huyền Trang và Quốc vương đối đáp như thế mấy lần, cuối cùng, vua bảo: Pháp sư giờ có hai đường để chọn, một là lưu lại đây, hai là đưa Pháp sư trở về nước.

Huyền Trang tâm chẳng động, bảo: Chuyến đi này của Huyền Trang vì cầu đại pháp, nay bị Đại vương ngăn trở. Thân xác Huyền Trang có thể lưu lại đất này, tâm tôi Đại vương chẳng thể giữ.

Trải qua ba ngày, Huyền Trang ngồi thẳng tuyệt thực, nước chẳng hề thấm môi. Đến ngày thứ tư, Quốc vương thấy hơi thở Huyền Trang yếu dần, lo sợ thưa rằng: Đệ tử xin để Pháp sư đi, mời Pháp sư ăn uống trở lại.

Trải qua nhiều kiên trì với chí nguyện Tây du, Ngài mới được vua Khúc Văn Thái chấp nhận để Ngài lên đường. Trước khi đi, vua thỉnh Huyền Trang giảng “Nhân Vương Bát Nhã Kinh” 仁王般若經

Mỗi ngày khi nghe giảng, vua đều đích thân niêm hương rước Ngài đến giảng đường, trải qua một tháng, ngày ngày đều như vậy.
Tiễn ngài Huyền Trang, vua cung cấp rất nhiều vật dụng cần thiết cho chuyến đi, quan trọng nhất là vua đã viết thư cho 24 nước và Tây Đột Quyết trên tuyến đường đi, giới thiệu để họ tiếp đón khi Ngài đi qua lãnh thổ của họ. Ngài Huyền Trang rất cảm động trước tấm lòng của vua.

Ngày lên đường, vua Cao Xương (Khúc Văn Thái) cùng đại thần và tăng chúng đều đưa tiễn Ngài đến phía Tây thành. Quốc vương và Huyền Trang cùng khóc chia tay, đạo tục đều bùi ngùi. Khúc Văn Thái để hậu phi và dân chúng về trước, còn chính mình và cao tăng với đại thần đưa xa hơn mười dặm, lưu luyến mãi không đành lòng từ biệt.
Đường đi từ Cao Xương đến Qui Tư
Huyền Trang cùng những người được vua Cao Xương phái
theo hộ tống đi tiếp hướng Tây qua thành Vô Bán無半 (nay là Bố-can đài布干臺).
Rồi đi tiếp đến thành Đốc Tiến篤進 (nay là Thác-khắc-tốn托克
, Toksun).

Tường phía Nam của cổ thành Vô Bán無半故城, cổ thành đã bị gió cát sa mạc bào mòn, được các nhà khảo cổ học phát hiện gần đây.
Di tích cổ thành Vô Bán
Thác-khắc-tốn năm đó là thành Đốc Tiến. Thác-khắc-tốn 托克遜 (Toksun) phía nam chân núi Thiên Sơn, phía Tây thung lũng Thổ-lỗ-phồn, phía Nam tiếp giáp với Hòa Thạc和碩, huyện Uất Lê尉犁, phía Tây giáp với Hòa Tĩnh和静, phía Bắc là dãy Thiên Sơn. Vị trí nằm từ vĩ tuyến 41°21′14″Bắc đến 43°18′11″Bắc, kinh tuyến từ 87°14′05″Đông đến 89°11′08″Đông. Nay là cấp huyện thuộc thành phố Thổ-lỗ-phồn. Từ Cao Xương đến huyện Thác-khắc-tốn khoảng 70km.
Thác-khắc-tốn
Thác-khắc-tốn là nơi điểm hợp của hai dòng sông. Sông Bạch Dương phát nguyên từ Thiên Sơn và sông A-lạp-câu, chảy về hồ Ngải Đinh艾丁湖.


Hồ Ngải Đinh (Aydingkol Hu) là điểm thấp nhất của bồn địa (lòng chảo) Thổ-lỗ-phồn. Thấp hơn mặt nước biển 155m, cũng là điểm thấp nhất - sau biển chết (Tử Hải -391m). Hồ Ngải Đinh phía Nam cách thành phố khoảng 40km. Đông tây dài khoảng 40km, Nam bắc rộng 8km. Diện tích 152 km vuông. Ngày nay người ta gọi hồ này là Nguyệt Quang hồ月光湖. Bên cạnh hồ người ta thường thấy cảnh “lầu sò chợ biển” (ánh giả, ảo tưởng. Ánh sáng soi bể giọi lên trên không thành ra muôn hình ngàn trạng, ngày xưa cho là vì con sò thần nó hoá ra và gọi là thận lâu hải thị 蜃樓海市). Nhưng ngày nay đã hoàn toàn khô cạn.
Hồ Ngải Đnh ngày nay
Qua thành Đốc Tiến cả đoàn Huyền Trang đến suối A Phụ Sư阿父師泉, nghỉ lại một đêm bên cạnh suối.

Suối A Phụ Sư, nay là A-cách-mộc-bố-lạp-khắc阿格木布拉克 huyện Tháckhắc-tốn托克遜縣, sườn núi cao vài trượng tại phía Nam, nước chảy ra từ ở giữa.
Tương truyền rằng ngày xưa, có một đoàn thương nhân Tây Vực trên đường đi hết nước, gặp nạn nguy khốn nơi đây. Trong đó có một vị sư già nói: Mọi người đều cần nước, nên thành tâm lễ Phật, tôi lên đó, mọi người đồng loạt hô to: “A Phụ sư vì chúng con cho nước!” thì có thể có nước. Mọi người theo lời, quả nhiên một luồng nước suối trong từ sườn núi chảy xuống. Mọi người được cứu rất là vui mừng, lại chẳng thấy vị sư đó trở xuống. Lên vách núi tìm, thấy sư ngồi đó an nhiên tịch. Tôn kính ân đức của lão sư, người ta an táng và lập tháp tại đó.

Sầm Tham岑參 có thơ rằng:
涼秋八月蕭關道 Lương thu bát ngoạt tiêu quan đạo,
北風吹斷天山草 Bắc phong xuy đoạn thiên sơn thảo.
崑侖山南月欲斜 Côn luân sơn nam nguyệt dục tà,
胡人向月吹胡笳 Hồ nhân hướng nguyệt xuy hồ già.
Tháng tám trời thu đường quan buồn
Gió bấc thổi gãy cỏ Thiên Sơn
Nam núi Côn Luân trăng sắp xế
Người Hồ thổi sáo ngắm trăng tàn.


Đoàn đi tiếp về phía Tây, vượt ngọn núi Ngân Sơn銀山 (Khố-mễ-thập庫米什 Kumux) là nhánh phía Nam của Thiên Sơn, núi này phân ranh nam bắc. 
Núi nhiều giặc cướp, ngài Huyền Trang nhờ vua Khúc Văn Thái cho người bảo hộ, cho tiền bọn cướp, mới qua được an toàn.

Núi Ngân Sơn nay là núi Khố-mc-thp庫木什山, nhánh Nam của dãy Thiên Sơn. Núi này nhiều khoáng sn bc, các nước Tây Vc dùng để đúc tiền.

Sầm Tham岑參 có thơ rằng:
能兼漢月照銀山 Năng kiêm hán nguyệt chiếu ngân sơn
復逐胡風過鐵關 Phục trục hồ phong quá thiết quan
交河城邊飛鳥絕 Giao hà thành biên phi điểu tuyệt
輪臺路上馬蹄滑 Luân đài lộ thượng mã đề hoạt
Hay đem trăng Hán chiếu Ngân Sơn,
Lại theo gió Hồ đến Thiết Quan,
Bên thành Giao Hà vắng cánh nhạn,
Trên đường Luân Đài vó ngựa trơn.

Khi đến gần thành đô A-kì-ni, dừng lại nghỉ đêm bên bờ sông Khai Đô開都河.
Trong đoàn cùng đi có mười thương nhân Tây Vực gấp đến vương thành để buôn bán, nửa đêm lên đường trước, đi khoảng mười dặm gặp cướp sát hại và đoạt hết tiền của. Khi đoàn Huyền Trang đến chỉ còn thấy thi thể, ai cũng thương tiếc.
Từ đó qua sông Ô-la-tư-đài đến đồng bằng A-kì-ni, vùng lục châu gần lòng chảo Tarim.

Sông Khai Đô開都 có các dòng họp tại Yên Kì nên được tên Khai đô. Sông chảy tiếp về hướng đông nam, đổ vào hồ Bác-tư-đằng 博斯騰.
Truyền thuyết gọi đây là “Thông Thiên hà”, nhắc đến trong Tây Du Kí hồi 47.










Truy cập