Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2013

Lời dẫn





1- Dàn bài và những chú thích tên bằng tiếng Anh hay Phạn nương theo
quyển “Hsuan Tsang – The Pilgrim and Scholar” và phần chuyển ngữ Việt
“Huyền Trang Nhà Chiêm Bái” do Ni sư Trí Hải chuyển ngữ.
2- Nội dung chúng tôi lược dịch theo bản Hán:
- 大慈恩寺三藏法師傳 # Taisho Tripitaka Vol. 50, No. 2053
- 大唐故三藏玄奘法師行狀一卷 # Taisho Tripitaka Vol. 50, No. 2052
- 大唐西域記 # Taisho Tripitaka Vol. 51, No. 2087
3- Phần chú thích : Phần địa và sử, chúng tôi lược dịch theo những tài liệu
từ “Wikipedia, the free encyclopedia”, LoveToKnow. Những tài liệu này hiện
đang phổ biến bất vụ lợi trên mạng, độc giả có thể đọc bổ sung thêm, khi
cần.

Tài liệu tham khảo

a/ Tài Liệu Ngoại ngữ:
-  唐内典录[唐释道宣]
* 金珲. 苍茫灵山. 北京: 结出版社
- Alexander Cunningham, The Ancient Geography of India, India, 2002
- Bản đồ:
** Bản đồ các nước Trung Á tải từ mạng.
** Bản đồ Cam Túc, Tân Cương:
* Zhong Gou Luyou Dituce. China
* 最新中國地圖. Oustanding Publication (精英出版社)
* Map of The People’s Republic of China. Chengdu Cartographic Publishing House.
** Bản đồ Ấn Độ:
* Lastest Map of India. Indian book Depot (Map House)
* Road Atlas India. India: Lal Chand & Son.

b/ Tài Liệu tiếng Việt:
- Thích Minh Châu, Huyền Trang Nhà Chiêm Bái, Trí Hải (dịch), BTT VĐHVH, 1996.
- Võ Đình cường, Đường Tam Tạng Thỉnh kinh, Viện NCPHVN, 1992
- Đoàn Trung Còn, Văn Minh Nhà Phật, Nxb Tôn Giáo, 2003
- Thích Minh Châu, Thích Thiện Châu, Đường Về Xứ Phật, Trường Cao Cấp PHVN, 1989.
- Xa Mộ Kỳ, Con Đường Tơ Lụa, Nguyễn Phố (dịch), Nxb Trẻ, 2000.
- Nguyễn Hiến Lê, Ý Chí Sắt Đá, NXB VHTT Hà Nội, 2000.
- Akhil Bakshi, Theo Dấu Xe Trên Con Đường Tơ Lụa, Phạm Minh Thảo (biên dịch), Nxb VHTT Hà Nội, 2004.
- Tuệ Khai, Nghiên Cứu Phật Giáo Tây Vực, Pháp Tạng PGVN, Lưu hành nội bộ, 2004.
- Tôn Thư Vân,  Muôn Dặm Không Mây,  Tâm Hiếu (dịch), Nxb THTPHCM, 2006.
- Đại Đường Tây Vực Ký, Thích Như Điển (dịch), TTVHXH PGVN CHLB Đức, 2004.
- Bút Ký ‎ Đường Tăng, Nhuế Truyền Minh (chú giải), Lê Sơn (biên dịch), Nxb Phương Đông, 2007

Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2013

Lời kết

Các bạn thân mến,

Chúng ta đã cùng nhau theo bước Tam tạng Huyền Trang tây du trong thời gian qua. 

Mười bảy năm gói trong những trang sách, với những đoạn đường gian nan trên những đỉnh núi tuyết. Khi post lại chúng tôi cũng bồi hồi cảm động trước chí quyết của người xưa.

Tập sách này soạn xong vào năm 2007, thời điểm đó tài liệu về những di tích chưa được khai quật nhiều, nên còn nhiều thiếu sót.

Chân thành cảm tạ các bạn đã ghé thăm và cùng dõi bước người xưa với chúng tôi.


II-5-2 Đường về qua Tân Cương đến Tràng An


II-5-2- Đường về qua TÂN CƯƠNG:

1- Kabhada (Khiết-bàn-đà) → 2- Yarkand (Usa, Ô-sát) → 3- Kashgar (Khư-sa) → 4- Yecheng (Chước-cú-ca) → 5- Kustana (Khotan, Vu Điền) → 6- Qira (Bhima, Bễ-ma) → 7- Niya (Nê Nhưỡng) → 8- Tukhara cũ (Đổ-hóa-la) → 9- Thả Mạt (Chiết-ma-đà-na) → 10- Nhược Khương (Nạp-phược-ba).

Village mosque on road to Kashgar from the Torugart Pass
①→ Về phía Đông 500 dặm đến xứ Kabhada (Khiết-bàn-đà朅槃 ). Đô thành lưng dựa vào núi. Xứ này nhiều sông, sông này chảy về Đông vào các đầm nước mặn, thấm xuống đất lộ ra những tảng đá chất chồng, nên nói xứ này là nguồn của sông. Trong nước có mười ngôi chùa, tăng đồ khoảng năm trăm, tu học theo Nhất thiết Hữu bộ. Vua thuần hậu chất phác, kính tin Phật pháp. Dung mạo người dân giống như người Hán nhưng mặc y phục người Hồ. Huyền Trang lưu lại đây 20 ngày.

Khiết-bàn-đà nay là vùng Taxkogan (Tháp-thập- khố-nhĩ-can塔什库尓干), nằm giữa cao nguyên Pamir và dãy Kunlun (Côn Luân), thuộc tỉnh Tân Cương, thượng lưu sông Diệp Nhĩ Khương葉尓羌 (Yarkand). Đây là cửa khẩu trọng yếu của núi Thông Lĩnh.
Theo ĐĐTVK kể rằng, vua A Dục lên ngôi, cho lập tháp trong hoàng cung nước ấy. Thời đó có bốn vị luận sư nổi tiếng. Miền Đông có Mã Minh, miền Nam có Đề Bà, miền Tây có Long Thọ, miền Bắc có Đồng Thụ. Người đời tôn là “Tứ nhật chiếu thế” (bốn mặt trời soi chiếu trần gian). Khi vua Khiết-bàn-đà nghe danh liền cử binh đi đến Taxila (Đãn-xoa-thỉ-la) đón Đồng Thụ về lập chùa.
→ Đi tiếp về hướng Đông bắc 5 ngày thì gặp cướp, sau đó cùng nhau đi dần xuống hướng Đông, gặp ngọn đồi, chịu rét lạnh vượt dốc cao. Con voi của Ngài bị chết.

Kongur Muztagh Ata nhìn từ Karakorum
Vượt qua hai ngọn núi Muztagata (Mộ-sĩ-tháp-cách sơn慕士塔格山 Mùshìtǎgé Fēng) cao 7.586m và Kongur Shan (Công-cách-nhĩ sơn公格尓 ) cao 7.719m. Đây là hai ngọn núi cao nhất trên con đường Huyền Trang đã đi qua.
Muztagh Ata (Muztagata) là ngọn cao thứ hai của dãy Kunlun. Muztagh Ata nằm phía Nam của ngọn Kongur Tagh và dưới chân phía Bắc của cao nguyên Tây Tạng. Nó được coi như thuộc Kunlun mặc dù nó gần Pamir hơn.
Không xa về phía Bắc và Đông của nhóm núi này là vùng đất thấp của thung lũng Tarim và sa mạc Taklamakan.

② → Đi hơn 800 dặm ra khỏi thung lũng Pamir đến xứ Usa (Ô-sát烏鎩). Nước này sản xuất nhiều loại ngọc thạch như bạch ngọc, khuông ngọc (ngọc đen huyền), thanh ngọc. Khí hậu ôn hòa. Trong nước có mười ngôi chùa, khoảng ngàn tăng đồ, học theo Tiểu thừa. Dân sùng kính Phật giáo, trong nước không có vua, lệ thuộc Khiết-bàn-đà. Phía Tây đô thành có dãy núi lớn có vị Tỳ-kheo nhập diệt tận định.
 Ô-sát nay là Yarkand (Yarkant, Sa-xa莎車, Shāchē, Suōchē) 37°52′Bắc 77°24′Đông, cao độ 1.189m, là một tỉnh trong Tân Cương, Trung Quốc. Nằm ở rìa phía Nam sa mạc Taklamakan trong lòng chảo Tarim. Yarkand là một vương quốc Phật giáo cổ xưa trên con đường tơ lụa nhánh phía Nam.

Thung lũng Yarkand
Sông Yarkand (sông Diệp Nhĩ Khương) là đầu nguồn của sông Thung lũng Yarkand Tarim ở Tân Cương, miền cực Tây của Trung Quốc. Sông dài 970 km bắt nguồn từ dãy Karakoram trong vùng Kashmir. Nó chảy qua vùng thung lũng của dãy Kunlun (Côn Luân), sau đó chảy về ốc đảo Yarkand. Sau khi rời ốc đảo, con sông chảy về hướng Đông bắc quanh rìa sa mạc Takla Makan. Từ đó kết hợp với các dòng khác hình thành sông Tarim. Không giống như những con sông đầu nguồn khác của Tarim, sông Yarkand đầy nước quanh năm từ những tuyết và băng hà tan trên hệ thống núi Karakoram và Kunlun, nó là nguồn nước chính của sông Tarim.

③ → Từ Usa (Ô-sát) đi về hướng Bắc, qua sa mạc rộng lớn hoang vu khoảng 500 dặm đến xứ Kashgar (Khư-sa佉沙, Sơ-lặc疏勒). Đất này khí hậu ôn hòa, dân cư tính tình thô tháo, hung dữ, mắt xanh biếc, không siêng năng học chữ. Trong nước có vài trăm ngôi chùa, một vạn tăng đồ nhưng chỉ tụng niệm không chuyên nghiên cứu nên ít thông Tam tạng.
Kashgar (Ca Thập喀什, Cascar, Kāshí). Trước kia tên Sơ-lặc疏勒, Su-leh, Sulei, Shule, Shu-le, Shele, Shu-lo hoặc Sha-le. Sanskrit: Śrīkrīrāti.
Khi dòng sông tại Kashgar đóng băng
Kashgar nằm ở rìa phía Tây sa mạc Taklamakan, dưới chân núi Thiên Sơn (Tian Shan) vị trí 39°28′Bắc, 76°03′Đông, cao độ 1.290m. Là một thành phố ốc đảo thuộc Tân Cương Duy-ngô-nhĩ (Xinjiang Uyghur). Ốc đảo Kashgar là nơi gặp nhau của hai tuyến đường nam bắc từ Trung Quốc đi quanh sa mạc Taklamakan.
Kashgar được biết đến vào năm 76 BC (trước công nguyên) khi nhà Tây Hán chinh phục được Hung Nô, Vu Điền (Khotan), Sơ Lặc (Kashgar) và các nước ở thung lũng Tarim quanh chân núi Thiên Sơn.
Sa mạc vùng Kashgar

Kashgar theo đạo Phật rất sớm, phát triển nhanh và mạnh khi con đường mậu dịch giữa Tây và Đông mở cửa, số lượng đường sá tăng lên.
Lịch sử của Kashgar cũng thay đổi theo nhiều triều đại của Trung Quốc. Đọc những tư liệu rải rác để lại, thì chiến tranh và tàn phá cũng không ít. Vương triều Kalahan tín ngưỡng đạo Hồi, nên lúc đó Kashgar là trung tâm Hồi giáo lớn nhất Tây Vực.
Huyền Trang định về thăm lại Cao Xương như lời hứa lúc ra đi, nhưng nghe tin nước Cao Xương đã bị Đường triều diệt vào năm Trinh Quán 14, hiện gọi là Tây Châu西州. Ngài ngậm ngùi mãi, bèn quyết định chọn con đường phía Nam về Trường An.

④ → Đông nam 500 dặm, qua sông Sita, qua nhiều dãy núi lớn và đến Chokkuka (Chước-cú-ca斫句迦). Nước này chùa tháp nhiều, kinh điển Đại thừa cũng nhiều.
Yecheng (Diệp Thành)
Chokkuka (Kargilik, Karghilik) nay là Yecheng (Diệp Thành叶城, Yèchéng) vị trí 37°51′Bắc 77°30′Đông. Yecheng là tên của ốc đảo và thành phố, nằm ở vành đai phía Nam của sa mạc Taklamakan, Tân Cương.
⑤ → Đầu năm 644, đi tiếp về Đông 800 dặm đến xứ Kustana (Cù-tát-đán-na瞿薩旦那), tức Vu Điền 于闐, nay là Hòa Điền. Hoà Điền chính là nước Vu Điền cổ đại (còn huyện Vu Điền ngày nay thì không phải.)
Khotan (Hotan, Hòa Điền和田, 和闐, Hétián) vị trí 37°6′Bắc 80°1′Đông, là một đô thị ốc đảo, là một điểm dừng chân quan trọng trên con đường tơ lụa phía Nam, thuộc Tân Cương Duy-ngô-nhĩ (Xinjiang Uyghur).
Nơi đây có hai con sông lớn cung cấp nước, sông Karakash và sông Yurungkash cung cấp nước cần thiết cho miền Tây nam bên ven sa mạc Taklamakan mênh mông– sa mạc rộng thứ hai trên thế giới.

Sông Yurungkash (Bạch Ngọc hà)
Đô thị cổ này có một lịch sử phong phú về tơ lụa, ngọc bích và đồ gốm. Nó nằm phía Tây sông Yurungkash (còn gọi là sông White Jade, vì nơi đây bạch ngọc tìm được trong phù sa bồi. Phần lớn ngọc bích hiện nay không còn, thỉnh thoảng có thể tìm thấy. Sông vẫn còn cung cấp nước để tưới cho đô thị và vùng phụ cận.
Vùng này là nơi khảo cổ học tìm thấy rất nhiều thứ đã bị chôn vùi trong cát sa mạc.

Sông Karakash (Hắc Ngọc hà)
Karakash (Karakax) hay Black Jade River (Chinese: Hắc Ngọc 黑玉河; pinyin: Hēiyù Hé), phát nguyên từ rặng Karakoram. Con sông này nổi tiếng nhờ những viên ngọc màu trắng hay màu lục, nằm trong dòng sông như đá cuội. [Sông Ca La Ca Thập gọi là sông Hắc Ngọc, sản sinh ra loại ngọc đen tuyền hay xanh đen].
Yurungkash (Yurungkax) hay White Jade River (Chinese: Bạch Ngọc hà白玉河; pinyin: Báiyù Hé), phát nguyên từ Kashmir, dãy Kunlun (Côn Luân), sông chảy qua Hòa Điền và cạn dần trong cát sa mạc. [sông Ngọc Long Ca Thập玉龍喀 còn tên Bạch Ngọc, vì sau cơn nước lớn trong lòng sông có loại ngọc màu trắng từ núi Kunlun chảy về đọng lại.]
Tại Hòa Điền, trên hai con sông này có thể đi vớt ngọc, tương truyền rằng, nơi nào có ngọc thạch, mặt nước ban ngày ban đêm sáng lên đặc biệt, cho nên ban đêm, nơi nào ánh trăng sáng có thể tìm thấy ngọc. Hàng năm vào mùa hạ nước lũ từ nguồn đổ về, ngọc thạch lộ thiên tại Kunlun theo lũ tràn về dòng sông. Tháng chín nước rút, nước sông trong, dân chúng kéo đi tìm ngọc.
Huyền Trang ở lại 7 ngày. Vua thân hành đến thăm. Ngài đến kinh đô, ở lại ngôi chùa thuộc Nhất thiết Hữu bộ. Ngài cho người đến Kuccha và Kashgar tìm kinh điển Ngài đã đánh mất khi qua sông Indus. Vua xứ Kustana là người mạnh mẽ có trí, kính trọng Phật pháp, tự xưng là Tỳ-sa-môn thiên, nghe tin Huyền Trang đến cùng với quần thần ra nghênh đón bái yết, vua trở lại đô thành trước, để thái tử ở lại hầu cận Ngài. Vài hôm sau cho cận thần đến đón Huyền Trang về kinh đô. Vua thỉnh Ngài giảng Du Già, Đối Pháp, Câu Xá, Nhiếp Đại thừa Luận... Quốc vương cùng đạo tục đến nghe mỗi ngày cả ngàn người.
Từ Kustana cho một thanh niên ở Cao Xương đi với thương gia đem thư báo tin về cho Hoàng đế Trung Quốc.
Sau bảy tám tháng có chiếu chỉ vua báo, hết sức vui mừng khi nghe Ngài trở về và ban lệnh cho các quan sở tại hộ vệ và đón rước.
Sau khi nhận chiếu chỉ, Ngài lập tức khởi hành, vua Kustana cúng dường cho Ngài những thứ cần thiết để khởi hành.

⑥ → Ngài đi về phía Đông 300 dặm đến thành Bhima (Bễ-ma ).
Thành Bễ-ma nay khoảng phía Bắc huyện Sách-lặc策勒 (Qira), Tân Cương. Thành này đã bị chôn vùi trong cát. Vùng bắc bộ Sách-lặc có một vài khu thành hoang phế bị cát chảy (lưu sa) chôn vùi, trong đó có tháp Phật chùa chiền và thôn trang [Tơ Trù Chi Lữ, Xa-mộ-kỳ]
⑦ → Đi tiếp về hướng Đông qua một sa mạc 200 dặm đến thành Niya (Ni Nhưỡng泥壤).
Niya

Ni Nhưỡng nay là di chỉ cổ thành Ni Nhạ尼雅, tại Tân Cương, phía Bắc huyện Dân Phong民丰 Minfeng 100km, giữa sa mạc.
Thời Đông Hán, Dân Phong thuộc nước Thiên Thiện. Di chỉ của nước này ở hạ lưu sông Ni Nhã cách huyện Dân Phong 150km về phía Bắc hiện nay đã bị chôn vùi trong sa mạc. Di chỉ Ni Nhã phân bố dọc theo sông Ni Nhã khô cạn, Nam bắc dài chừng mười cây số, Đông tây rộng hai cây số. [theo Tơ trù chi lữ, Xa-mộ-kỳ]
→ Vẫn hướng Đông vào một sa mạc cát, gió thổi cát bay, nên không để lại dấu vết, không cỏ nước. Gặp nạn yêu mị nóng độc, không có đường đi ngoài những bộ xương người và vật trên lối đi.
Sa mạc Taklamakan (Tháp-khắc-lạp-mã-can塔克拉瑪干), còn gọi là mê lộ vì gió thổi bay hết dấu chân trên đường, không có vết tích mà theo.
 Sầm Tham có thơ rằng:
Cô thành ỷ đại thích 孤城倚大磧
Hải khí nghênh biên không 海氣迎邊空
⑧ → Đi tiếp 400 dặm đến xứ Tukhara (Đổ-hóa-la睹貨邏) cũ. Thành đã hoang tàn.
Hiện nay tại Andirlangar (An-địch-nhi-lan-can安廸爾 蘭干) nằm trong sa mạc Taklamakan, người ta phát hiện cổ thành phần lớn đã bị chôn vùi trong cát. Nhưng chưa có có những khai quật rõ ràng để xác định có phải là Tukhara cổ hay là một thành lũy cổ của nhà Đường.

⑨ → 600 dặm đến xứ Calmadana (Chiết-ma-đà-na折摩馱那), lãnh thổ của Qiemo (Qarqan), Chenchen (Thả Mạt且末), thành trì còn đó mà không một bóng người.
Sông gần thành phố đóng băng từ hai đến ba tháng trong mùa đông.
⑩ → Đông Bắc 1000 dặm đến xứ Navapa (Nạp-phược-ba納縛 ) đất Loulan (Lâu-lan樓蘭) [nay thuộc huyện Nhược Khương若羌 Ruoqiang (Qarkilik)].

Phía Đông của thành phố cổ xưa Niya là một thành phố bị chôn vùi đang nổi tiếng trên thế giới đó là vương quốc Loulan, vương quốc này đã bị cát vùi lấp hơn 1.400 năm qua.
Vùng lòng chảo quanh sa mạc Taklamakan có khoảng 36 đô thị, trên đường bành trướng của sa mạc, nó đã vùi lấp tất cả vương quốc kia dưới đụn cát cao 250m, các vương quốc đã biến mất trong cuộc chiến đấu với thiên nhiên.

Về đến địa phận Trung Quốc
Mùa thu năm Trinh Quán 18 (644), Huyền Trang từ Dương Quan tiến vào đất nhà Đường, các quan viên ở Đôn Hoàng ra nghênh tiếp. Các đại biểu nhà Đường tặng phẩm vật cho sứ thần Vu Điền, nhưng họ từ chối không nhận.
* Các người hộ vệ của Kustana trở về, khi Huyền Trang đến Sa Châu沙州.
Dương Quan cổ đạo
Dương Quan

Đi tuyến Nam con đường tơ lụa thì ra Dương Quan, đi tuyến Bắc thì ra Ngọc Môn Quan. Lúc đi Huyền Trang chọn hướng Bắc nên theo sông Sơ Lặc đến Ngọc Môn Quan vượt Ngũ phong đài qua sa mạc đến Hami.
Đường về từ Nhược Khương vượt sa mạc theo hướng Nam vào Dương Quan đến Đôn Hoàng.
Vương Duy王維 trong Vị Thành Khúc渭城曲 có nhắc đến ải Dương Quan với hai câu kết “Xin mời anh hãy uống hết chén rượu tiễn này, Vì khi anh đi về phía tây Dương Quan rồi sẽ không còn bạn thân nữa.” Và bài thơ lưu truyền đến ngày hôm nay.
渭城朝雨浥輕塵客舍青青柳色新勸君更盡一杯酒西出陽關無故人Vị thành triêu vũ ấp khinh trầnKhách xá thanh thanh liễu sắc tânKhuyến quân cánh tận nhất bôi tửuTây xuất dương quan vô cố nhân.
Sa Châu là Đôn Hoàng ngày nay.
Đôn Hoàng có nghĩa là “thịnh đại”, nó là yết hầu của con đường tơ lụa. Đôn Hoàng là một lục châu đầy nước và cỏ, đây là trạm dừng chân để chuẩn bị lương thực vượt sa mạc Taklamakan rộng lớn.
Đôn Hoàng là dải đất ở tận cùng Hành lang Hà Tây ở mút phía Tây. Từ đời nhà Hán trở đi đây là con đường giao thông trọng yếu giữa Trung Quốc và các nước Tây Vực. Thời Thượng cổ đất này của Tây Nhung西戎, thời Xuân Thu gọi là Qua Châu, thời Tầnlà đất thuộc Đại Nguyệt Chi大月氏, thời Hán sơ thuộc Hung Nô. Niên hiệu Nguyên Đỉnh元鼎 năm thứ sáu (111 B.C.) đặt là Đôn Hoàng Bộ. Đến đời Đông Tấn, niên hiệu Hàm Khang năm đầu (335- 341) đặt đất này là Sa Châu.

Đôn Hoàng di chỉ
Khoảng niên hiệu Long An隆安(397- 401) nhà Tây Lương kiến lập kinh đô nơi đây.
Thời Hậu Ngụy, Thái Vũ Đế đặt là trấn Đôn Hoàng敦煌鎮.
Đến nhà Tùy, khoảng niên hiệu Đại Nghiệp (605-616) đổi thành quận Đôn Hoàng. Các triều đại Đường, Tống, Nguyên, Minh lần lượt đặt là Qua Châu, Tây Sa Châu, Đôn Hoàng, Sa Châu. Đời Thanh, Càn Long (1736-1795) đặt là huyện Đôn Hoàng, thuộc tỉnh Cam Túc.
Đất này từ xưa đã có nhiều bộ tộc cư trú, văn hóa phong tục phức tạp. Phật giáo từ xưa đã được truyền bá tại đất này, nơi đây đã có nhiều vị Cao tăng, các vị tăng dịch kinh đến đây, không tính kể hết. Người đương thời xưng tán
Cao tăng Trúc Pháp Hộ là “Đôn Hoàng Bồ Tát”, người đầu tiên tại Đôn Hoàng lập chùa truyền bá. Các Cao tăng đi Tây vực cầu pháp cũng dừng lại nơi đây rất nhiều. Ngoài ra đến đời Bắc Ngụy có Cao tăng Đàm Vô Sấm ở nơi đây dịch Bồ Tát Giới Bổn菩薩戒本 và Đại Bát Niết Bàn Kinh大般涅槃經 (Bản Bắc). Đàm-ma mật-đa曇摩蜜多 nơi đây khai khẩn đất, kiến lập tinh xá, tận lực hoằng pháp.
* Ngài viết thêm cho Hoàng đế một bức thư, vua sai Lương quốc công, Phòng Huyền Linh sắp đặt việc đón tiếp.
* Nghe tin vua sắp đi viễn chinh gần sông Liêu, Ngài vội trở về đến kinh Tào Thượng漕上 (canal). Chính quyền địa phương không biết cách đón tiếp Ngài nhưng dân chúng thì kéo đến đảnh lễ hàng hàng người, làm các con đường đông nghẹt không lối đi, Ngài phải ở lại Tào Thượng漕上 một đêm.
* Tháng Giêng mùa xuân niên hiệu Trinh Quán 19 (645) Thủ tướng Phòng Huyền Linh cử Hầu mạc Trần Thật, đại tướng xứ Hữu Võ Hầu, Lý Thúc Thông, Tư mã ở Ung Châu và Lý Hàn Cựu, Huyện lệnh ở Tràng An đi đón Ngài. Ngài đến Tào Thượng, theo sau là vô số người ở tại khách xá và kinh đô.
* Vào ngày ấy theo lệnh chính quyền nhiều ngôi chùa trong kinh đô đều sửa soạn đón tiếp, rước xá-lợi Phật và kinh tượng do Ngài thỉnh về. Dân chúng vô cùng hân hoan, tranh nhau bái yết Ngài.

* Ngài mang về Trung Hoa:
- 150 viên xá-lợi Phật - 1 tượng Phật vàng trong hang Long-khốt trên núi Chánh Giác ở Ma-kiệt-đà
- 1 tượng Phật bằng gỗ trầm hương, trình bày đức Phật chuyển pháp luân lần đầu tiên ở Varanasi
- 1 tượng Phật bằng gỗ trầm hương mô phỏng tượng trầm hương do vua Udayana xứ Kausambi tạc
- 1 tượng Phật bằng bạc tạc hình đức Phật từ cung trời giáng xuống cung Ca-tỳ-la-vệ
- 1 tượng Phật bằng vàng tạc hình đức Phật đang thuyết kinh Pháp Hoa và những kinh khác trên đỉnh núi Thứu-phong xứ Ma-kiệt-đà
- 1 tượng Phật bằng gỗ trầm hương tạc hình đức Phật khắc phục mãng xà ở Nagaraha
- 1 tượng Phật bằng gỗ trầm tạc hình đức Phật khất thực quanh thành Vaisali và vài tượng khác
* Kinh điển Ngài mang về:
- 224 bộ kinh Đại thừa
- 192 bộ luận Đại thừa
- 15 bản của phái Thượng tọa
- 15 bản của phái Đại chúng
- 15 bản của phái Chánh lượng
- 22 bản của phái Di-sa-tắc
- 17 bản của phái Ca-diếp-tỉ-la
- 42 bản của phái Pháp mật
- 67 bản của phái Nhất thiết hữu
- 36 bộ Nhân minh luận
- 13 bộ Thanh minh luận
Tổng cộng 520 hòm có 675 cuốn, phải dùng 20 ngựa để mang.

Ngài ra đi vào tháng 4 niên hiệu Trinh Quán thứ 3 (629 sau kỷ nguyên), vào lúc 26 tuổi, từ Tràng An cho đến Vương-xá, đã đi hơn 8.333 dặm Anh (khoảng 10.000 km), mất tất cả 17 năm trước khi về đến Trung Quốc.

II-5-1 Đường về qua Ấn Độ-Pakistan-Afghanistan

Giờ về cố hương đã đến! Tạm biệt quê hương thứ hai!
Năm 641 (niên hiệu Trinh Quán 25), đầu mùa hạ Huyền Trang lên đường về lại cố hương. Các vua đến chào bái biệt Huyền Trang, đưa thư đến nhiều xứ trên đường về yêu cầu giúp đỡ khi Pháp sư đi qua. Chia tay bùi ngùi rơi lệ.

Đoạn này không kể trong Đại Đường Tây Vực Ký, nương theo Từ Ân Truyện ghi lại.
ẤN ĐỘ:
1- Kosambi (Kiều-thưởng-di) → 2- Vilasana (Tì-la-na-noa) → 3- Jalandhara (Xà-lan-đạtla)

① → Huyền Trang đi cùng với vua Ô-địa-đa烏地多 (Udita) mang theo nhiều kinh tượng, từ xứ Prayāga đi hướng Tây nam, qua khu rừng rộng, sau 7 ngày đến Kosambi (Kiều-thưởng-di), viếng các thánh địa và thánh tích Thiên thê天梯 trong một tháng.
②→ Tây bắc đến thủ đô xứ Vilasana (Tì-la-na-noa毘羅那拏), gặp hai người bạn cũ lúc học tại Nalanda là Sư Tử Quang (Siṃharaśmi) và Sư Tử Nguyệt (Siṃha-candra) từng giảng Câu Xá, Nhiếp Luận, Duy Thức..., cả hai mừng rỡ đón tiếp Huyền Trang, mời Ngài khai giảng Du Già Quyết Trạch瑜伽決擇 và Đối Pháp Luận對法論. Huyền Trang dừng lại đây hai tháng.
③→ Về hướng Tây bắc, trải qua một tháng Huyền Trang đi qua nhiều xứ, đến xứ Jālandhara (Xà-lan-đạt-la闍蘭達羅) dừng lại đây một tháng. Vua Ô-địa-đa烏地多 (Udita) cho tùy tùng theo hộ vệ về phương Đông.
Jālandhara (Xà-lan-đạt-la闍蘭達羅) nay là phía Bắc Ấn, Phí-lãng-đạt-nhĩ費朗達爾. Lịch sử sớm nhất của Jalandhar được tìm thấy trong thời gian trị vì của các triều vua Ca-nị-sắc-tra (Kanishka) và Quý Sương (Kushan) miền Bắc Ấn. Jalandhar và Multan là những thành phố cổ nhất còn sót lại tại vùng Punjab.
Người Quý Sương (Kushan)
 Đoạn này không kể trong Đại Đường Tây Vực Ký, nương theo Từ Ân Truyện ghi lại.

Đường về qua PAKISTAN:
1- Simhapura (Tăng-ha-bổ-la) → 2- Takshashila (Đát-xoa-thỉ-la) → 3- Laghman (Lam-ba) → 4- Varana (Bannu) → ...

① → Vua cho người hộ tống Ngài đi về phía Tây bắc, 20 ngày sau đến xứ Simhapura (Tăng-ha-bổ-la僧訶補羅) [nay là Ba-cơ-tư-thản, Lạp-kiều-lí乔里]. Lúc này đã cuối năm.
Rời Simhapura, có 100 vị Sư từ phía Bắc đến đây tu học, nay trở về phương Bắc, cùng đi với Huyền Trang, đem kinh tượng về nước.
Xứ này nhiều giặc cướp, Huyền Trang e sợ gặp cướp, thường cho một vị tăng đi trước. Nếu gặp cướp liền bảo rằng, từ xa đến đây cầu pháp, nay hành lý chỉ có kinh tượng và xá-lợi, xin đàn việt ủng hộ cho. Tuy có gặp cướp nhưng đều vô hại.
Tăng-ha-bổ-la僧訶補羅 ( Siṃhapura) đô thành dựa vào núi, hiểm trở, khí hậu lạnh. Nay là vùng đất dưới chân núi Salt Range.
Salt Range

Đá muối (rock-salt)
 Salt Range là vùng đồi núi trong tỉnh Punjab, Pakistan. Tên nó xuất phát từ loại đá rock-salt (xem hình). Dãy núi phát xuất từ vùng Jhelum, trên vùng đồi Chel sừng sững, bên phải bờ sông Jhelum, đi ngang qua vùng Shahpur, băng qua hạt Mianwali. Từ đó nhánh phía Nam hình thành vành đai giữa Bannu và Dera Ismail Khan cho đến khi sáp nhập vào hệ thống núi Waziristan.
Dãy Salt Range là một dãy đồi thấp giữa thung lũng sông Indus và sông Jhelum, một phần phía Bắc Punjab thuộc Pakistan. Tên núi phát xuất từ nguồn gốc những tinh thể muối, đây là một trong những vùng giàu muối trên thế giới, tuổi của nó từ thời tiền sử. Dãy Salt Range dầy khoảng 490m trải dài trong 300km dưới rặng Karakoram và Himalayas ở Pakistan.Dãy salt range có nhiều mỏ muối và là nguồn cung cấp muối vô tận! cung ứng hết miền Bắc Ấn. Than đá cũng được tìm thấy nơi đây nhưng với số lượng ít hơn.
② → Trải qua hai mươi ngày đi trong đường núi như thế, đến xứ Takshasila (Đát-xoa-thỉ-la呾叉尸羅). Vua Kashmir nghe tin cho sứ sang nghênh thỉnh về, nhưng Ngài từ chối viện cớ hành lý cồng kềnh. Ngài nghỉ 7 ngày rồi tiếp tục lên đường.
Tượng Phật khổ hạnh ở Taxila
Taxila
Takshashila (Takkasila, Taxila) vị trí 33°46′45″Bắc, 72°53′15″Đông.Ngày nay Taxila thuộc vùng Rawalpindi, gần thủ đô Islamabad, Pakistan. Viện Bảo tàng Taxila được thiết kế còn lưu giữ nền văn minh Gandhara.
Ngài đi trong ba ngày đến sông Tín-độ信度 (Indus) rộng năm sáu dặm. Giữa sông có cuồng phong. 50 bộ kinh bị mất.
Vua Kapiśyapiya (Ca-tất-thí迦畢試) ở đô thị Udakakkhanda (Ô-đạt-ca-hán-đà烏鐸迦漢茶) thân hành đến hỏi thăm, mời về kinh ở hơn 50 ngày. Ngài cho người trở lại xứ Udyana (Ô-trượng-na) để chép tam tạng giáo điển của phái Kāśyapiya (Ca-diếp-tí-da迦葉臂耶). Khi Huyền Trang ở đây vua Kashmir đến thăm.
③ → Ngài cùng vua Kapiśa (Ca-tất-thí) đi về hướng Tây bắc hơn một tháng đến xứ Lampada (Lam-ba藍波). Huyền Trang được tiếp đón long trọng, Ngài ở lại 75 ngày, vua mở đại hội Vô giá.
Lampada (Lam-ba藍波) nay thuộc Laghman, Afghanistan.
④→ Đi tiếp về hướng chính Nam 15 ngày đến xứ Varaṇa (Phạt-thích- noa伐刺拏) để chiêm bái thánh tích.
Varaṇa (Phạt-thích-noa伐刺拏) nay thuộc Bannu. Bannu có nhiều di tích từ thế kỷ thứ II trước công nguyên.
BannuNhững đồi đất Akra đã nói với người đi qua bằng một lời vô ngôn về những gì nó chứa đựng trong lòng của nó, một nền văn minh Ấn Độ cổ.
Những dấu chân xâm lăng miền Trung Á được giữ lại trong sự chịu đựng của thời gian cho chúng ta toàn bộ hình ảnh, làm thế nào mà Bannu được coi như là một cổng vào để họ xâm nhập vào miền trù phú của tiểu lục địa Ấn Độ.
Hiện nay Bannu xanh mát và phì nhiêu giữa vùng núi khô khan lởm chởm, những khách du lịch đến đây gọi nó là “thiên đàng”!
ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ - QUYỂN 12
(大唐西域記卷第十二)

Đường về qua AFGHANISTAN:
1- Ghazni (Tào-củ-tra) → 2- Phụ cận Kabul (Phật-lật-thị-tát-thảng-na) → 3- Kapisa → 4- Andarab (An-đát-la-phược-bà) → 5- (Khoát-tất-đa) → 6- Kunduz (Hoạt-quốc)

① → Huyền Trang đi về phía Tây bắc qua vùng Avakan (Tào-củ-tra漕矩吒Tsau-ku-ta), thủ đô là thành Hạc-tất-na鶴悉那, có khi là thành Hạc-tát-la鶴薩羅. Thành quách đều kiên cố, sông núi nhiều. Có khoảng trăm ngôi chùa, tăng đồ hơn vạn người. Tín ngưỡng Phật giáo. Vua A Dục có lập tháp nơi đây.
Thành Hạc-tát-la鶴薩羅Ho-sa-lo nay gần sông Helmand, trong tỉnh Ghazni.
Thành Hạc-tất-na鶴悉那Ho-si-na nay là Ghazni.
Ghazni (Gia-tư-ni加兹尼) 33°32′00″Bắc 68°25′01″Đông, là một thành phố phía Đông Afghanistan (A-phú-hãn阿富汗), và là thủ đô của tỉnh Ghazni, tọa lạc ở cao độ 2.219m.
Thành phố Ghazni là trung tâm Phật giáo phát triển trước và trong thế kỷ thứ VII. Năm 683 quân đội Arab đã đem đạo Islam đến gần vùng này, từ đó bành trướng dần vào lãnh thổ Ấn Độ.1151 thành phố bị phá hủy san bằng cho đến khi bước chân của Mông cổ đến, 1221 thành phố lại phục hưng rồi lại thường xuyên bị hủy hoại.
In the 1960s a 15-meter female Buddha was discovered lying on its back and surrounded by empty pillars that once held rows of smaller male Buddhas. Parts of the female Buddha have been stolen. In the 1980s a mud brick shelter was created to protect the sculpture, but the wood supports were stolen for firewood and the shelter partially collapsed.Sông Helmand (Helmend, Helmund, Hirmand, Tarnak, Darya-ye Helmand) là con sông dài nhất trong nước Afghanistan. Sông dài 1.150km từ dãy Hindu- Kush, cách phía Tây thủ đô Kabul 80km, chảy về hướng Tây nam, qua sa mạc đến đầm lầy Seistan và hồ Hamun-i-Helmand vùng đất Zabol tại biên giới Afghan-Iranian.
Không giống như hầu hết những con sông không đi tới biển, sông Helmand giữ được không độ mặn trên đường đi của nó, sông dùng trong việc tưới đất ruộng, dù rằng độ mặn của chất khoáng trong nước có làm giảm đôi chút sự lợi ích của nó trong việc dùng nước tưới.


② → Từ đây Huyền Trang đi hướng Bắc suốt 500 dặm đến xứ Vrjisthāna (Phật-lật-thị-tát-thảngna 佛栗氏薩儻那), đô thành là Hộ- tất-na護苾那. Khí hậu lạnh lẽo, con người tánh tình thô bạo. Vua thuộc dân tộc Đột Quyết突厥, tin kính Phật giáo, quý việc học, trọng đạo đức.
Nay là vùng phụ cận lưu vực sông Kabul (Khách-bố-nhĩ 喀布爾 - Aphú- hãn阿富汗). [Xem trên bản đồ khoảng vùng Ca-lạp-ba-cách卡拉巴格, phía Bắc Kabul, trong lưu vực sông Kabul.]
③ → Ngài đổi sang hướng Đông, vượt núi qua sông vào địa phận xứ Kapiśa (Kapisa). Vua vì Huyền Trang cử hành Pháp hội Đại thí trong bảy ngày.
Vua xứ Kapiśa tiễn Ngài đến đô thị Cù-lô-tát-báng瞿盧薩謗 (Grosapam), nơi đây bùi ngùi từ biệt nhau. Vua chu cấp lương thực và cho cận thần hơn trăm người hộ vệ Ngài qua ngọn Tuyết sơn.
Đoàn hộ tống Ngài vượt núi Đại tuyết sơn (Bà-la-tê-na đại lĩnh  羅犀那大岭) [nay là sơn khẩu Ca-ngõa-khắc卡瓦克山口 – Hundikush, Afghanistan]. Núi này đỉnh cao chập chùng lởm chởm đủ hình dáng. Lúc phẳng lì lúc chót vót. Trèo lên rất cay đắng khó khăn, gió lạnh khốc liệt, đường hẹp khúc khuỷu, lúc vào hang sâu, lúc lên sườn dốc. Bấy giờ cuối mùa hạ, tiết vào thu mà băng còn dầy, phải đục băng tiến lên. Nơi đây không thể đi ngựa, chỉ nương gậy mà đi. Đi trong bảy ngày mới đến đỉnh.
Lại đi thêm bảy ngày nữa mới đến hẻm núi cao, dưới đó có một làng nhỏ, chừng một trăm nhà, chăn nuôi dê, dê giống như lừa. Ngài nghỉ lại trong thôn đó, nửa đêm lên đường, người trong thôn dẫn lối. Nơi đây nhiều khe suối nhỏ trên mặt đóng váng băng, nếu không có người dẫn đường, dẫm lên đó băng vỡ sẽ chết chìm. Đi đến ngày hôm sau mới qua hết đoạn băng nguy hiểm này.
Đi theo con đường núi, lại lên đỉnh núi, núi này cao chót vót không thể lường được, băng trắng xóa mênh mông như biển, mây dầy tuyết bay chẳng lên tới đỉnh. Trên núi cây cỏ không mọc nổi, chim bay không tới, đèo cao gió rét, đá hình thù kì dị chồng chất.
Sơn khẩu này cao nhất trong cuộc hành trình của Huyền Trang.

④ → Ngài xuống núi đi về hướng Tây bắc, đi trong 6 ngày đến xứ Antarāva (An-đát-la-phược-bà安怛羅縛婆An-ta-lo-fo-po). Núi đồi liên tiếp, khí hậu lạnh, tuyết rơi mạnh. Trong nước có ba ngôi chùa, vài mươi tăng đồ, có một tháp do vua A Dục xây. Dân chúng quen cúng bái thần linh, ít kính tin đạo Phật. Nơi đây tu tập theo Đại Chúng bộ. Huyền Trang dừng lại năm ngày. Từ đây đã vào phạm vi của Tây Đột Quyết.

Baghlan

Antarava nằm dưới chân Hindu-Kush thuộc miền Tây Bắc Ấn độ, nay thuộc Andarab (An-đạt-lạp-bá安達拉伯), bang Baghlan, Afghanistan. Baghlan
Di chỉ
Di chỉ Baghlan vào thế kỷ thứ II

⑤ → Đầu năm 643, Huyền Trang từ Antarāva (An-đát-la-phượcbà 安怛羅縛婆) theo hướng Tây bắc xuống núi, đi hơn 400 dặm đến xứ Hoát-tất-đa闊悉多Kwoh-seh-to (Khoust) thuộc địa của Đổ-hóa-la睹貨 (Tukhara). Xứ này núi rừng chiếm gần hết diện tích, vùng đất bằng nhỏ hẹp, gió mạnh, khí hậu lạnh. Dân chúng không biết lễ nghĩa, hung hãn. Có ba ngôi chùa, tăng đồ rất ít.
Hoát-tất-đa闊悉多 nay vị trí khoảng giữa Taloqan (Tháp-lạc-cam塔洛甘) và Andarab (An-đạt-lạp-bá安達拉伯), bang Baghlan.
⑥ → Tây bắc 300 dặm qua vùng núi non đến xứ Kunduz (Hoạt quốc活國) [nay là Côn-đô-sĩ昆都士], xứ này nằm bên bờ sông Phược sô (Amu, A-mỗ阿姆). Cháu của Diệp Hộ khả hãn trấn thủ nơi đây, xưng là vua Đổ-hóa-la, cai quản các tiểu quốc từ phía nam Thiết Môn. Đất đai bằng phẳng, cây trái hoa quả tươi tốt, khí hậu ôn hòa, phong tục thuần hậu chất phác. Dân kính tin đạo Phật, chùa có mười ngôi chùa, tăng đồ vài trăm, học theo Đại thừa.
Huyền Trang dừng lại đây một tháng. Sau đó, vua phái hộ vệ đưa Ngài về Đông.
Từ Kunduz (Hoạt Quốc) đi về Đông phải qua Thông Lĩnh, tức cao nguyên Pamir (Phạ-mễ-nhĩ帕米爾). Núi rừng chập chùng.
 
Afghanistan-Caravan

Đường về qua Afghanistan- bang BADAKHSHAN và hành lang WAKHAN:
1- Munjan (Măng-kiện) → 2- Himatala (Hê-ma-đát-la) → 3- Badaksan (Bát-sáng-na) → 4- Yamgan (Dâm-bạc-kiện) → 5- Kurana (Khuất-lang-noa) → 6- Termistat (Hộ Mật) → 7- (Bát-lộ-la)
fg

① → Từ Kunduz đi trong hai ngày đến xứ Munjan (Măng-kiện ).
Munjan thuộc phía Nam tỉnh Badakhshan, thuộc rặng Hindu-Kush, Afghanistan.
Tỉnh Badakhshan nằm ở Đông bắc Afghanistan, giữa rặng Hindu-Kush và sông Amu Darya. gồm 29 thị trấn, và Huyền Trang đã đi qua những thị trấn Jurm, Kuran wa Munjan, Wakhan, Yamgan…
Badakhshan là một nơi dừng chân trên con đường tơ lụa cổ xưa. Phần lớn đất đai là dãy Hindu Kush và dãy Pamir chiếm cứ. Nó có một hành lang, là hành lang Wakhan, mở rộng tới Chitral tại Pakistan, từ đó trải dài đến biên giới Trung Quốc.
Fayzabad (Feyzabad) 37.118°Bắc 70.580°Đông nằm bên dòng sông Kokcha, là thủ đô của tỉnh Badakhshan. Mùa đông thành phố bị cô lập bởi tuyết phủ dầy.
Cạnh đó có các nước A-lợi-ni阿利尼, Hạt-la-hồ曷邏胡, Cật-lậtsắt- ma訖栗瑟摩, Bát-lợi-hạt缽利曷 đều là đất của Đổ-hóa-la.
② → Đi tiếp về Đông 300 dặm, qua núi đồi đến xứ Himatala (Hêma- đát-la呬摩怛羅Hi-mo-ta-lo). Núi rừng quanh co, đất đai trồng hoa quả được. Khí hậu lạnh, dân tính nóng nảy, thô bạo. Ít lễ nghĩa. Chiến tranh xung đột với nước Đột Quyết, nên dân lưu lạc tha hương. Phía Tây nước giáp với Cật-lật-sắt-ma訖栗瑟摩.
Badakhshan
Dòng sông Pamir hẹp gần Khorog
Sông Pamir chảy qua Afghanistan
Tiếng Phạn Himatala có nghĩa là dưới chân núi Tuyết (雪山之下), nay là Đông bắc Afghanistan, phía Nam bờ sông Kokcha (Khoa-khắc-tra科克查).
③ → Huyền Trang đi về hướng Đông, đường đèo cheo leo hiểm trở. Đi 200 dặm đến Badaksan (Bát-sáng-na缽創那Po-to-chang-na) gặp bão tuyết phải dừng lại đây hơn một tháng.

Badakshan
Badaksan, Badakshan nay là vùng phụ cận Feyzabad (Pháp-trát-ba-đức法扎 巴德), Đông bắc Afghanistan, thượng du sông Kokcha.
④ → Đông nam đi đường núi 200 dặm đến xứ Yamgan (Dâmbạc- kiện淫薄健).
Yamgan (Girwan) thuộc tỉnh Badakhshan, Afghanistan. Hiện nay một phần của hạt Baharak. Di chỉ khoảng Jorm. [Miền Triết-nhĩ-mỗ哲爾姆 Đông bắc Afghanistan].
⑤ → Dẫm nguy đạp hiểm qua đèo vượt hang trong 300 dặm đến Kurāna (Khuất-lang-noa屈浪拏). Trong nước ít chùa Phật, ít tăng đồ.
Nay là Kuran (Khổ-lan苦蘭) miền thượng du cao nhất của sông Triết-nhĩ-mỗ 哲爾姆, lòng sông hẹp, Đông bắc Afghanistan.

⑥→ Đông bắc 500 dặm đường núi đến xứ Termistat (Đạt-ma-tấtthiết- đế達摩悉鐵帝), còn gọi là nước Hộ Mật護密.
Nước này ở giữa hai mạch núi cao, gần sông Amu-Darya (Phượcsô). Đông tây dài 1.600 dặm, nhưng chiều rộng Nam bắc khoảng 5 dặm, có những chỗ chẳng hơn một dặm. Lòng sông sâu quanh co, vách núi cao ngất, cát đá đổ xuống, gió lạnh thê lương. Nơi đây sản sinh loại ngựa hình dạng nhỏ con nhưng mạnh mẽ, dai sức khi đi xa. Phong tục không lễ nghĩa, mắt xanh biếc, khác với người dân nhiều nước khác.
Đô thành là Khandud (Hôn-đà-đa昏馱多) nơi đó có chùa, nhà vua cho đục đá, san bằng một khoảng núi để xây chùa, trong có tượng Phật bằng đá, từ đó đạo Phật thịnh hành tại đây.

Wakhan
Nước này bắt đầu vào hành lang Wakhan (Ngõa Hán tẩu lang瓦漢走郎).
Hành lang Wakhan (Wakhan Corridor hay Wakhan Salient) là một hành lang dài và hẹp. Nó nằm trên vùng núi Pamir với Tajikistan ở phía Bắc, phía Nam giáp Pakistan-administered Kashmir và phía Đông giáp China.
Hành lang Wakhan
Về mặt lịch sử, Wakhan, là một vùng quan trọng hàng ngàn năm nay nơi mà Đông, Tây và Trung Á gặp nhau, trước khi biến cố Islam và những tranh chấp giữa Tibet và China.Cuối phía Đông của hành lang là núi Wakjir, đường đèo qua Hindu- Kush ở cao độ 4.923m, nơi đổi múi giờ giữa Afghanistan và Trung Quốc (+4:30 UTC tại Afghanistan và +8 UTC tại China). Biên giới với Trung quốc một trong những biên giới cao nhất trên thế giới. Theo lời diễn tả của J.Townsend (2005), “Đường đèo này bị đóng ít nhất năm tháng trong một năm. Và mở để thông thương rất bất thường trong thời gian còn lại”.
Hành lang này dân cư rất thưa thớt.
Huyền Trang nghe kể rằng:
- Phía Bắc có nước Shighni (Hộ-khí-ni戶棄尼), ở biên giới Afghanistan và Tajikistan dọc theo sông Panj (Panjshir).
- Phía Nam là nước Sgamaka (Thương-di商彌). Sông núi xem lẫn nhau, đồi gò chập chùng, khí hậu lạnh, tính người chất phác, không biết lễ nghĩa. Vua dòng họ Thích nên tôn sùng Phật pháp, trong nước có hai ngôi chùa, tăng chúng ít.
Sgamaka (Xa-ma-yết-la-xà奢摩羯羅闍) nay thuộc khoảng vùng đất Chitral (Khế-đặc-lạp契特拉), Pakistan. Nằm phía Nam núi Hindu-kush (Hưng-đô-khố).
⑦ → Đông 700 dặm đường núi đến sông Ba-mê-la䜝羅 (sông Pamir), sông dài ngàn dặm chảy theo hướng Đông tây. Có hồ rộng khoảng trăm dặm. Ở trong khoảng núi Tuyết, thung lũng Pamir. Tuyết bay ngày đêm không dừng. Đất đai lạnh lẽo, cảnh vật tiêu điều, không một dấu vết con người.
Đến thế kỷ thứ bảy, ngài Huyền Trang là người đầu tiên tả về cảnh cao nguyên Pamir này.
Từ sông Ba-mê-la (Pamir) đi về Đông, qua sơn khẩu Minh Thiết Cái明鐵蓋 cao độ 4.800m tại Ca Thập, Tân Cương.
 Sơn khẩu này bốn bề núi tuyết san sát như rừng, bên trái sông băng đổ xuống như treo giữa trời, trên cao lạnh khốc liệt, thế núi chót vót, đá chồng chất ngổn Sông Panjshir ngang, không có đường đi.
Phía Nam sông, ra khỏi núi có xứ Bát-lộ-la缽露羅. Xứ này có nhiều vàng bạc, màu vàng rực như lửa.

Từ đây đi về hướng Đông nam qua một dãy núi, quanh co hiểm trở, khí hậu lạnh lẽo, không có người ở.
Mời xem tiếp phần cuối đường về qua Tân Cương

Truy cập