(Nước Kyrgyzstan , Kazakhstan)
1-
Hồ Issyk-Kul (Nhiệt Hải) → 2- Tokmak (Tố Diệp) → 3- Thiên
Tuyền → 4- Taraz (Đát-la-tư) → 5- Sayram (Bạch Thủy) → 6 -Nejkend (Nô-xích-kiện)
→ ...
① → Đoàn Huyền trang vượt Lăng Sơn, đi trong đường núi 400 dặm đến hồ Issyk-Kul (Đại Thanh Trì大清池).
Hồ này
có tên Nhiệt
Hải (Hot
sea) vì
ở cao độ 1.600m nhưng nước không
đóng băng trong khi núi non chung quanh đóng băng tuyết vĩnh
hằng. Ngài Huyền
Trang gọi là “Thanh Trì” vì hồ
nước trong xanh.
Chu vi hơn ngàn
dặm, phía Đông
tây dài, Nam bắc
hẹp. Bốn mặt
đều dựa vào
núi, nhiều sông
suối đổ ra hồ
này. Hồ sắc
nước xanh đen, vị
mặn đắng, sóng
lớn cao hàng trượng.
Đại Thanh Trì
nay là hồ Y-tái-khắc伊塞克, phía Tây bắc Cát-nhĩ-cát-tư-tư-thản吉爾吉斯斯坦 (Kyrgyzstan ).
Issyk Kul là hồ trên núi, lớn thứ nhì
trên thế giới (sau hồ Titicaca). Tọa độ 42°30′Bắc 77°30′Đông, dài 182km rộng
60km, sâu khoảng 270m, chu vi bờ hồ khoảng 688km, gồm 118 dòng sông đổ vào hồ,
hai sông lớn nhất là sông Djyrgalan và sông Tyup.
Phía Nam
bờ hồ là dãy núi Tian Shan (Thiên Sơn) hùng vĩ.
Hồ Issyk Kul là điểm dừng trên con đường tơ lụa, lộ trình trên đất liền từ miền
Viễn Đông đến châu Âu.
② → Đi men theo hồ về phía Tây bắc
500 dặm đến thành Tố Diệp素葉城. Cây cối ít, khí hậu lạnh. Ngoài thành, Huyền Trang gặp vị thống
lãnh Tây Đột Quyết là Diệp Hộ khả hãn. Diệp Hộ cho người đưa Ngài về thành nghỉ
ngơi trước. Đất nước này đang thời kỳ cường thịnh, nhưng khoa học, văn học và
luân lý không rành.
Ba ngày sau, Khả Hãn đi săn về, làm
tiệc khoản đãi Huyền Trang. Khi Huyền Trang còn cách lều Khả hãn mươi bước, Khả
hãn bước ra khỏi màn trướng lễ bái. Sau tiệc, thỉnh Huyền Trang thuyết pháp. Khả
hãn hoan hỉ tin nhận và rất quý trọng Huyền Trang.
Lưu giữ Huyền Trang lại nhiều ngày,
ông nói với Ngài: “Pháp sư
không cần đi Ấn Độ, khí hậu nơi đó rất nóng, dung mạo pháp sư, e rằng đến đó sẽ
bị phơi nắng đen đủi, dung nghi không còn dễ nhìn nữa”. Huyền
Trang đáp: “Tôi đã quyết
tâm đến đó cầu Phật pháp”.
Khả hãn thấy thái độ Huyền Trang
kiên quyết nên không lưu giữ nữa, cho một người từng sống tại Trường An đem thư
giới thiệu đến các nước lân cận và xuất một đội binh hộ tống pháp sư đến nước
Kapisa (Ca-tất-thí迦畢試國, thuộc A-phú-hãn阿富汗). Vua đích thân cùng tùy tùng đưa
tiễn Huyền Trang mười dặm.
Nhưng chỉ trong năm này vua bị ám
sát, đất nước tan rã. Khi Huyền Trang đến là một thị trấn huy hoàng, nay chỉ
còn là đống đất vụn.
Tố Diệp素葉 còn gọi
là Toái Diệp碎葉 nay là Tokmok, Tokmak, Thác-khắc-mã-khắc托克馬克 là thành phố phía Bắc Kyrgyzstan
(Cát-nhĩ-cát-tư-tư-thản吉爾吉斯斯坦), tọa
độ 42°50′Bắc 75°17′Đông, cao độ 816m, nằm phía Đông thủ đô Bishkek (Bỉ-thập-khải-khắc比什凱克).
Nhà thơ Lý Bạch đời Đường sinh trưởng
ở vùng Toái Diệp này.
Bishkek (Pishpek, có lúc được đổi tên
là Frunze [Phục
Long Chi伏龍芝]), tọa độ 42°52′29″Bắc 74°36′44″Đông.
Bishkek nằm phía Bắc ven rặng Ala-Too (A-lạp-đa阿拉多), một
nhánh của rặng Tien Shan (Thiên Sơn), cao 4.800m đã làm cho thành phố thêm hùng
vĩ. Phía Bắc của thành phố, một thảo nguyên phì nhiêu nhấp nhô kéo dài đến bang
Kazakhstan
kế cận. Sông Chu (楚河) dẫn nước cho thành phố này. Bishkek là trạm nghỉ trọng yếu
trên con đường tơ lụa.
Những rặng núi tuyết phủ quanh năm
thường dùng cụm từ “Ala-Too” để diễn tả, dù rằng ở Kyrgyz cụm từ này có nghĩa
“nhiều màu sắc”. Tuyết phủ ở cao độ 3.600m trở lên.
Dãy Terskey Ala Too (Alatau) còn gọi
là “shady mountains” nằm phía Nam
bờ hồ Issyk Kul. Dãy Kungey Ala Too (Alatau) gọi là “sunny mountains” nằm dọc
phía Bắc bờ hồ Issyk Kul, làm thành biên giới giữa Kyrgyzstan
với Kazakhstan .
[Nhìn trên bản đồ Kyrgyzstan sẽ thấy rõ, khi mặt trời
lên, bóng núi dãy Terksey Ala Too sẽ hắt xuống thành phố, nên gọi là “núi hắt
bóng” và dãy Kungey Ala Too đón nắng mặt trời]
Kyrgyz có mặt từ năm 201BC (trước
công nguyên). Vào thế kỷ 12 Trung quốc miêu tả con người Kyrgyz là tóc đỏ mắt
xanh.
Phía tây Tố Diệp Thủy có khoảng
mươi thành nhỏ đơn lẻ.
③ → Đi tiếp tục theo hướng Tây 400 dặm
đến Thiên Tuyền千泉. Thiên Tuyền có nghĩa là một ngàn suối nước (Bình Tân屏津Bing-yul),
mùa hạ Khả hãn đến nơi đây tránh nóng. Thiên Tuyền chu vi khoảng hơn hai trăm dặm,
mặt Nam
là Tuyết Sơn, ba mặt kia là bình nguyên. Nguồn nước sung túc, đất đai phì nhiêu.
Nơi đây có lệnh cấm sát hại nai, nên có nhiều đàn nai chạy nhảy, đeo lục lạc.
Theo “Thương mang Linh Sơn” Thiên Tuyền
nay là Khố-mục-a-lôi-khắc-khố库穆阿雷克库.
Theo “Huyền Trang Niên Phổ”, Thiên
Tuyền ở khoảng Taraz và Bishkek.
Thiên Tuyền nằm khoảng chân núi phía
Bắc rặng Karatau (Cát-nhĩ-cát-tư吉尓吉斯山), giữa
sông Chu và sông Tích Nhĩ.
→
Từ thành Tố Diệp đến nước Yết-sương-na羯霜那, có một khu vực đất rộng
được gọi là Tốt Lợi窣利.
Tốt Lợi窣利 : Dân tộc
Tốt Lợi và ngôn ngữ Tốt Lợi窣利. Vương tộc các nước đều là dòng dõi
Nguyệt Chi, cùng họ Chiêu Vũ昭武. Vốn là Đại
Nguyệt Chi cư trú ở thành Chiêu Vũ phía Bắc dãy Kì Liên Sơn. Sau bị
Hung Nô đánh phá, dời nước đến phía tây Thông Lĩnh葱嶺 kiến lập nước Nguyệt Chi.
Đến đời Tùy phân ra làm chín nước:
Khang quốc康國, An quốc安國, Sử quốc史國, Tào quốc曹國, Thạch quốc石國, Mễ quốc米國, Hà quốc何國, Hỏa Tầm火尋, Mục quốc穆國. Trung Quốc
gọi là Chiêu Vũ cửu tính. Nơi đây hơn phân nửa là thương nhân, hoạt động thương
mại nên ảnh hưởng tính cách. Họ tham tài hiếu lợi, chẳng chuộng lễ nghĩa, giảo hoạt
dối trá, chỉ biết tích chứa tài vật, thu nhận như kẻ bần hàn.
④ → Từ phía tây Thiên Tuyền đi 450 dặm đến thung lũng nằm giữa
đồi xanh, đô thị Talas (Đát-la-tư呾罗斯, Tháp-lạp-tư塔拉斯), đất đai
khí hậu ôn hòa, có sông chảy qua, các nước buôn bán nơi đây.
Xem hai bản đồ bên dưới để hiểu rõ sự tương quan giữa Talas và
Taraz. Cả hai cùng nằm bên bờ sông Talas. Lúc ngài Huyền Trang đi qua Talas,
thì Talas ở vị trị Dzhambul
ngày nay.
► Taraz hiện nay là một thành phố và là trung tâm của tỉnh Zhambyl
nước Kazakhstan (Cáp-tát-khắc-tư-thản哈薩克斯坦) trước
đây Taraz gọi là Talas, Dzhambul
và Aulie-Ata. Taraz nằm ở phía Nam
của Kazakhstan , gần biên giới
Kyrgyzstan , trên sông Talas
(Taraz River ). Là một trong những thành phố lâu
đời nhất tại Kazakhstan, Taraz nổi tiếng trong lễ tổ chức 2000 năm tuổi, được
UNESCO công nhận vào năm 2001. Ngày pháo đài được xây dựng vào năm 36 trước
công nguyên. Thành phố được biết với tên “Talas” vào năm 568, thời trung cổ
thành phố là trung tâm giao dịch trên con đường tơ lụa. Năm 629 Huyền Trang đi
ngang đây thành phố mang tên Talas.
►Talas hiện nay là một đô thị nhỏ ở
Tây bắc Kyrgyzstan, vị trí ở thung lũng dài giữa hai ngọn núi, tọa độ 42°31′Bắc
72°14′Đông.
→ Đi tiếp về
hướng Tây hơn mười dặm gặp một thành nhỏ, có ba mươi nhà, gọi là tiểu cô thành小孤城. Dân cư
trong thành là người Trung Quốc, bị Đột Quyết bắt đem đến đây. Tuy sống nơi xa
lạ nhưng họ rất đoàn kết, tuy bên ngoài trang phục giống Đột Quyết nhưng họ
cương quyết bảo tồn truyền thống ngôn ngữ, lễ nghĩa, phong tục. Thấy Pháp sư Huyền
Trang từ cố quốc đến, họ mừng như gặp người nhà, nhiệt tình đón tiếp.
⑤ → Đi về hướng Tây nam 200 dặm gặp
đô thị Bạch Thủy白水.
Đô thị Bạch Thủy nay là Sayram thuộc
bang Kazakhstan
(Cáp-tát-khắc-tư-thản哈薩克斯坦).
Sayram |
(theo Akhil Bakshi) Năm 1989 bên ngoài khu vực Sayram,
các nhà khảo cổ học tình cờ phát hiện được một thiền viện. Họ tìm thấy được một
đèn dầu ở thế kỉ XII. Sayram đã có cách đây mấy ngàn năm, nơi tập trung các tri
thức.
Chimkent ở phía Nam Kazakhstan, tọa độ
42°303Bắc 69°573Đông, gần biên giới Kazakhstan, là một trung tâm văn hóa nổi tiếng.
Shymkent là giao lộ các lục địa, nơi dừng chân của các đoàn lữ hành trên con đường
tơ lụa. Đó là nơi những trục giao thông chính của châu Âu, Trung Quốc và Ấn Độ
gặp nhau. Những thành phố cổ Hazrat-e Turkestan
và Sayram trên con đường tơ lụa cũng gần đó.
Đi
tiếp hướng Tây nam 200 dặm đến đô thị Kuyu (chien-cheng, Cung Ngự恭御).
Hai đô thị này đất đai phì nhiêu,
cây cối sum sê. Đều thuộc khu vực của Tốt Lợi.
⑥ → Hướng Nam 50 dặm gặp Nejkend (Nô-xích-kiện笯赤建). Chu vi hơn ngàn dặm. Sản xuất nho quý, cây cỏ hoa trái tốt
tươi. Có cả trăm thành ấp, mỗi thành đều có cương vực, nhưng đều trực thuộc
Nô-xích-kiện.
Nô-xích-kiện笯赤建 nay là Hãn-a-ba-đức汗阿巴德 thuộc Tashkent (Tháp-thập-can塔什干). [Linh Sơn Thương Mang]
Theo Nhuế Truyền Minh thì Nô-xích-kiện
thuộc Kì-mỗ-khẳng-đặc奇姆肯特 (Chimkent )
HÀNH TRÌNH QUA MIỀN TRUNG Á
(Nước Uzbekistan , Tajikistan )
1- Tashkent (Giả
Thời) → 2- Fergana (Phế Hãn) → 3- Ura-Tyupe (Tốt-đổ-lợi-sắt-na) → 4- sa mạc
Kyzyl-Kum → 5- Samarkand (Táp-mạt-kiến) → ...
①
→
Đi tiếp 200 dặm đến xứ Giả Thời赭時 (Che-shih) nay là Tashkent (Tháp-thập-can塔什干) thủ đô của Uzbekistan .
Thời nhà Đường gọi là Thạch Quốc石國. Đông tây hẹp, Nam bắc dài. Đất
đai khí hậu giống Xích-kiện, vùng đất thuộc Đột Quyết kiểm soát.
Ban đầu Tashkent là một ốc đảo của sông Chirchik, gần
chân núi Golestan, tọa độ 41°16′Bắc 69°13′Đông. Được biết với tên Chach. Đời
Hán được biết với tên Beitian (Bin-kāth), đô thị của Kangju cổ xưa (Khang Cư康居). Tashkent
còn được gọi là thành phố đá (stone city). Về sau nó phát triển thành trung tâm
thương mại quan trọng trên con đường tơ lụa. Các đoàn lạc đà từ Trung Á, Ấn Độ, Trung Quốc,
châu Âu đều đi ngang Tashkent .
② → Từ đây về hướng Đông nam hơn 1.000 dặm đến nước Phế Hãn沛捍. Phế Hãn沛捍 đời Hán là
nước Đại Uyển, nơi sản sanh ra ngựa Hãn huyết (mồ hôi đỏ), Hán Vũ Đế gọi
là thần mã. Xứ này chu vi bốn ngàn dặm, núi bao bọc bốn bề. Khí hậu lạnh, người tính dũng mãnh. Ngôn ngữ khác với các nước khác.
Phế-hãn nay là thành phố Fergana . Fergana
(Farghana, Phí-nhĩ-can-nạp費爾干納) tọa độ 40°24′Bắc 71°46′Đông, ở phía Đông
Uzbekistan, rìa phía Nam thung lũng Fergana, miền nam Trung Á, nó cắt ngang qua
biên giới của Kyrgyzstan, Tajikistan và Uzbekistan.
③ → Lại đi hướng Tây hơn 1.000 dặm đến
xứ Sutrishna (Tốt-đổ-lợi-sắt-na窣堵利瑟那), chu vi một ngàn bốn trăm năm
mươi dặm. Phía Đông giáp sông Diệp Hà葉河. Sông Diệp Hà (sông Syr-Darya) phát
nguyên từ Bắc Thông Lĩnh chảy về hướng Tây bắc. Nước cuồn cuộn chảy xiết. Phong tục khí
hậu giống Giả Thời (Tashkent ).
Có vương phủ của Đột Quyết.
Sutrishna nay là Ura-tyupe
(Uro-teppa) thuộc Tajikistan ,
nằm ở phía Tây lòng chảo Fergana .
Ura-tyube là một trong những đô thị cổ nhất miền Trung Á, được thành lập hơn
2.500 năm.
Từ Tashkent đến sông Syr-Darya (Tích
Nhĩ錫爾) khoảng 65 km.
Sông Syr-Darya
Tên sông Syr-Darya có nguồn gốc từ tiếng
Ba Tư, đôi khi còn gọi là Jaxartes hay Yaxartes từ tên gọi theo tiếng Hy Lạp cổ
đại và đã được sử dụng rất lâu ở phương Đông, sông hình thành biên giới tự
nhiên giữa Uzbekistan và Kazakhstan .
Con sông này bắt nguồn bằng hai đầu
nguồn trong dãy Thiên Sơn ở Kyrgyzstan
và đông Uzbekistan ,
chảy trong khoảng 2.220km (1.380
Sông chảy qua phía Bắc cao nguyên
Pamir, phía tây Thiên Sơn và thung lũng Fergana
rồi hoà nhập vào biển Aral (Hàm Hải = biển nước lợ).
Sông Amu-Darya
Sông Amu-Darya (Sông Chakshu), Darya
có nghĩa là “biển”.
Nó bắt nguồn từ dãy Pamir trên lãnh
thổ Afghanistan với tên sông
Pamir, chảy theo hướng Đông-tây cho tới Ishtragh, tại đây nó quay trở lại theo
hướng Bắc và sau đó chảy theo hướng Đông bắc - Tây nam tới Hindu
Kush . Đến đây nó tên Panj, sau đó gần như là theo hướng đông-tây
và tạo ra biên giới tự nhiên giữa Afghanistan và Tajikistan, sau đó tạo ra biên
giới giữa Afghanistan và Uzbekistan trong khoảng 200km, vượt qua Termez và cầu
hữu nghị Afghanistan-Uzbekistan. Nó chảy theo biên giới của Afghanistan và Turkmenistan
trong khoảng 100 km nữa trước khi chảy vào lãnh thổ Turkmenistan tại Kerki.
Sau khi rời vùng núi cao, sông chuyển
hướng về Tây-bắc băng qua vùng đất Turan rộng lớn khô cằn, nơi nó tạo thành
ranh giới giữa sa mạc Kara-Kum卡拉库姆 (thuộc
Turkmenistan) hướng Tây-nam và sa mạc Kyzyl-Kum克孜勒库姆 (thuộc
Uzbeskistan) hướng Đông-bắc. Sông Amu đã mất rất nhiều lượng nước cho việc tưới,
bốc hơi và thấm vào lòng đất.
Từ
đây nó có tên gọi Amu-Darya (Sông A-mỗ阿姆), nó
chảy ngang qua Turkmenistan
theo hướng Đông-nam Tây-bắc, vượt qua Turkmenabat土库曼纳巴特 và tạo
ra biên giới của Turkmenistan
và Uzbekistan
tại Khalkabad. Sau đó nó phân ra thành nhiều sông nhánh (đã từng có thời gian tạo
ra các đồng bằng châu thổ và đổ vào biển Aral咸海), vượt
qua Urgench乌尓根奇, Dashoguz达绍古兹 và các thành phố khác nhưng ngày nay nó không chảy nổi tới
biển Aral nữa và biến mất trong sa mạc.
④
→
Đi về hướng Tây Bắc vào một sa mạc lớn (sa mạc Kyzyl-Kum ở giữa sông Tích Nhĩ錫爾河
(Syr-Darya) và sông A-mỗ阿姆
(Amu-Darya), nơi đây tuyệt không nước cỏ, cát là cát màu đỏ ối, cương vực không
biết đâu là đâu, chỉ nhắm về hướng ngọn núi cao, theo xương rải rác trên đường
mà đi.
Sa mạc Kyzyl Kum (Qyzylqum) là sa mạc
lớn thứ 11 trên thế giới. Kyzyl-Kum có nghĩa là “cát đỏ”, nó nằm ở Trung Á, bị
chia cắt bởi các nước Kazakhstan, Uzbekistan và một phần nước Turkmenistan. Diện
tích khoảng 298.000km2. Kyzyl-Kum ở độ cao 300m, hầu hết là cồn cát, cũng có vài ốc
đảo.
⑤ → Đi 500 dặm đến Samarkand (Táp-mạt-kiến颯秣建, thuộc
Ô-tư-biệt-khắc-tư-thản) còn gọi là Tát-mã-nhĩ-hãn撒馬爾罕. Chu vi một ngàn sáu trăm bảy
mươi dặm, Đông tây dài, Nam
bắc hẹp. Khí hậu ôn hòa, binh mã hùng dũng. Có nhiều hàng hoá trân bảo đến
từ các nước. Công nghệ cao. Quốc vương anh dũng, binh cường ngựa giỏi, binh sĩ cang cường
coi cái chết như sự trở về nhà (Kiến tử như quy見死如歸). Nhiều nước người Hồ chung quanh
lấy Táp-mạt-kiến làm chuẩn mực về chế độ lẫn hành vi.
Trung quốc thời đó gọi đây là
Khang quốc. Lúc Huyền Trang đến, nước đã bỏ Phật giáo theo Hỏa giáo (Agni) nên
Quốc vương tiếp rất lãnh đạm. Khi Huyền Trang giảng về Nhân quả báo ứng và Phật
pháp công đức, vua nghe xong rất vui mừng thỉnh Huyền Trang cho thọ giới. Vua hạ
lệnh mở hội độ người làm tăng, trăm họ từ đây mới bắt đầu tin Phật, trùng tu chùa,
chấn chỉnh nền Phật giáo trong nước.
Nơi đây là cửa ngõ giao thông, từ
Trung quốc muốn qua Iran
(Y-lan, Ba Tư) đều ghé qua đây, và ngược lại. Phong tục, chữ viết giống như Ba
Tư. Nơi đây bắt đầu khu vực ảnh hưởng Ba Tư.
Và những tên các nước như Uzbekistan , Tajikistan ,
Kazakhstan , Turkmenistan (Turkestan )
tận cùng bằng stan cũng có từ nguyên là sthana (nơi chốn).
Samarkand toạ độ 39°39′15″Bắc 66°57′35″Đông,
cao độ 702m, nó được công nhận là thành phố có 2.700 năm tuổi.
→ Về phía
Đông nam đến nước Nhĩ-mạt-hạ耳秣賀. Chu vi bốn trăm năm mươi dặm, Đông tây hẹp, Nam bắc dài. Có
nhiều sông, phong tục như Táp-mạt-kiến (Samarkand ).
→ Đi về hướng
Bắc đến Kiếp-bố-đãn-na劫布呾那, nhà Đường gọi là nước Tào曹國. Đông tây dài, Nam bắc hẹp.
Phong tục giống Táp-mạt-kiến.
Theo Huyền Trang Niên Phổ ghi lại lời
Biện Cơ: “Thư hành书行 là đến tận nơi, còn Thư chí书至 là nghe kể ghi lại. Nên hai địa danh này là nghe ghi lại.
ĐĐTVK ghi rằng “Từ Táp-mạt-kiến đi 300 dặm đến Yết-sương-na”, tức những nước nhỏ
ở khoảng giữa đó, Ngài nghe kể mà ghi”.
→ Hướng Tây
300 dặm tới xứ Khuất-sướng-nhĩ-ca屈霜你迦, nhà Đường gọi là nước Hà何國.
Khuất-sướng-nhĩ-ca屈霜你迦 (Kusanika, Khố-sa-ni-á库沙尼亚) ngày
nay cách Tát-mã-nhĩ-hãn撒马尔罕 (Samarkand ) 75km về phía Tây bắc.
→ Hướng Tây
hơn 200 dặm đến kinh đô Yết-hãn喝捍
(Kharghan), nhà Đường gọi là Đông An東安國.
Yết-hãn喝捍 nay là
Hợp-trác-mộc-bát-nhĩ哈扎木博爾 thuộc Uzbekistan .
[Những nước trên, Huyền Trang nghe kể lại ghi, nên
theo Từ Ân, không ghi trong cuộc hành trình, hơn nữa, những địa danh vừa nêu,
chưa định vị được trên bản đồ hiện nay, nhưng theo sự mô tả vùng đất đó ở giữa
Samarkand và Bukhara nên chỉ có thể định được hiện thuộc châu Navoiy (Nạp-ốc-y納沃伊). Chúng tôi chờ tìm được tài liệu sẽ bổ sung về
sau. TC]
HÀNH TRÌNH QUA MIỀN TRUNG Á