ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỰC KÝ - QUYỂN 3
(大唐西域記卷第三)
☸
[Đi qua 08 nước]
1- Udyana (Ô-trượng-na) → 2- Baltit (Bát-lộ-la) →
3- Taxila (Đát-xoa-thỉ-la) → 4- Jhelum (Simhapura, Tăng-ha-bổ-la) → 5- Hazara
(Urasa, Ô-thứ-thi) → 6- Kashmir (Ca-thấp-dila) → 7- Punch (Bán-nô-tha) → 8-
Rajauri (Rajapura, Át-la-xà-bổ-la).
① → Đi thêm 600 dặm trèo non lội
suối đến Udyāna (Ô-trượngna烏仗 那). Nhà Đường gọi đây là nước Uyển苑.
Xứ này khe núi liên tiếp, dân
chúng kính tín Đại thừa. Phật giáo hưng thạnh, xưa có cả ngàn ngôi chùa, tăng
chúng một vạn tám ngàn. Nay chùa viện phần lớn hoang phế, tăng chúng giảm nhiều.
Nơi này có nhiều sự tích Bản sanh của đức Phật.
Sông chảy qua Udyana |
Sông Swat chảy qua Udyana |
Udyāna theo
tiếng Sanskrit có nghĩa là khu vườn (pinyin: wu chang), vị trí nằm phía Bắc của
Peshawar
trên sông Swat, đô thị là Mangala (Mingaora, Mangora).
Đây là vùng
đất Phật giáo miền Bắc Ấn, một phần của biên giới là sông Indus (Tín Độ), ranh
giới phía Nam
là vùng đất Soo-ho-to.
Nơi đây có một
tảng đá ngày xưa đức Phật phơi y và có một nơi đức Phật hàng phục được rồng. Hiện
có di tích dấu chân Phật.
Pháp Hiển
khi đến đây có ghi lại rằng: Đây có di tích khi Đức Phật đến miền Bắc Ấn, Ngài
có đến nơi đây một lần và để lại dấu chân. Dấu chân dài hay ngắn tùy tâm người xem. Hiện
nay vẫn còn. (Theo những tài liệu hiện nay dấu tích đó còn tại thung lũng sông
Swat, vị trí 3501316Bắc 720459Đông).
Phía Đông thành bốn mươi lăm dặm có một đại tháp, tích truyện kể
đây là nơi ngày xưa lúc Phật làm vị tiên nhẫn nhục bị vua Ca Lợi Vương làm hại.
◉ 250 dặm về phía Đông bắc của đô
thị, vào miền núi non gặp suối Apalāla (A-ba-la-la阿波邏羅) còn gọi là A-ba-lợi Long tuyền,
vốn là nguồn của sông Subhavastu (Tô-bà-phạt-tốt-đổ蘇婆伐窣堵). Từ nguồn chảy xuống đất này, nước
lạnh buốt, xuân hạ thường đóng băng, chiều xuống thì tuyết bay luôn có màu ngũ
sắc lất phất như hoa múa giữa trời không. Phía Tây nam Long tuyền (Suối
A-ba-la-la) 30 dặm bên bờ Bắc có một tảng đá có dấu chân Phật, khi Đức Phật độ
rồng dữ lưu dấu chân lại. Vua rồng quy y, nghe Phật thuyết pháp, sinh tâm thanh
tịnh và ngộ đạo. Thuận theo dòng suối đi 30 dặm có một tảng đá nơi Đức Phật giặt
y.
Thung lũng sông Swat |
Shingardar Buddhist Stupa trên đường đi của thung lũng sông Swat |
Thung lũng
Swat 34°50′00″Bắc 72°22′00″Đông, nằm trong vùng North-West Frontier Province
(NWFP) của Pakistan ,
thủ đô là Saidu Sharif. Với nhiều núi cao, đồng cỏ xanh, và hồ nước trong, đó
là một nơi nhiều cảnh đẹp thiên nhiên.
Thung lũng
nằm bên bờ sông Swat, trước kia được biết với tên sông Shrivastu, sau nữa là
sông Suvastu.
Swat được
biết trên hai ngàn năm, và thời cổ nó có tên là Udyana. Năm 305 BC (trước công
nguyên) thuộc vương triều Khổng Tước (Mauryan Empire). Vào thế kỷ thứ II BC ,
vùng đất này Phật giáo rất phát triển nhờ vương triều Quý Sương (Kushans).
Có nhiều
nhà khảo cổ đã xác định vị trí của những thánh tích ngày xưa. Viện bảo tàng
Swat có trưng bày dấu tích của dấu chân Phật được tìm thấy ở thung lũng Swat.
◉ 400 dặm về phía Nam gặp
núi Hila (Hê-la醯羅). Theo truyện tích đây là nơi khi
Phật tu hạnh Bồ Tát xả thân để được nghe nửa bài kệ.
◉ Cách 50 dặm về phía Tây đô thị
Mang-laur (Măng-yết-li瞢揭釐), qua sông lớn, qua tháp Lohitaka
(Lô-hê-đát-ca慮醯呾迦) [vua A Dục xây]. Về hướng Đông bắc
của đô thị chừng 30 dặm, gặp tháp Adbhuta (Yết-bộ-đa遏部多) bằng đá. Qua sông lớn về phía
Tây của ngôi tháp đi chừng vài lý gặp đền thờ Quan Thế Âm.
Mang-laur (Mangata, Mangora hoặc Manglora,
Mingaora, Mingora) là thủ đô của Udyāna (Ô-trượng-na).
Mingora là một thị trấn ngày xưa với nhiều hàng
hoá, nhiều cơ quan. Nó đứng đầu trong vùng Swat. Viện bảo tàng Swat tọa lạc giữa
Mingora và Saidu, có nhiều bộ sưu tập nghệ thuật Gandhara với những hình ảnh
giá trị, cùng với những vật bằng sành, bằng đất nung, những chuỗi hạt, những đá
quý, tiền đồng, tranh thêu, gỗ chạm... thuộc dân tộc Gandhara.
Saidu Sharif cũng là thành phố như Mingora, các
nhà khảo cổ còn giữ lại được tháp Butkara Buddhist Stupa. Mingora nằm cạnh con
đường chính của thung lũng Swat, bên Nam ngạn sông Swat. Saidu sharif nằm
phía Nam Mingora.
◉ Từ thành Măng-yết-li瞢揭釐 (Mingaora) về hướng Đông bắc, qua
núi vượt đèo lên thượng nguồn sông Tín Độ (Indus ). Đường đi hiểm trở, núi non
thăm thẳm, những chỗ núi non hiểm trở phải đục hai bên sườn núi đá mà bắc ván gỗ
làm đường đi. Đi hơn ngàn dặm đến thành Đạt-lệ-la-xuyên達麗羅川, nơi đây có tượng Bồ Tát Di Lặc bằng
gỗ.
Đạt-lệ-la-xuyên達麗羅川 (Đà-lịch陀歷, Darel
[Darada]) kinh đô cũ của Ôtrượng-na. Darel là một thung lũng nằm ở hữu ngạn
dòng sông Indus (phía Tây dòng Indus )
② → Từ đây đi tiếp về hướng Đông
ngược dòng sông Tín Độ (Indus )
vượt núi qua đèo hiểm nguy khôn cùng mới đến nước Bát-lộla缽露羅. Nước này nằm trong vùng Đại Tuyết
Sơn (Great Himalaya). Khí hậu lạnh nên dân tình hung bạo, ít lễ nghĩa. Có hơn
trăm ngôi chùa, tăng đồ hơn ngàn người.
Bát-lộ-la鉢露羅Po-lu-lo (Bát-lô-lặc鉢盧勒, Ba-lộ波路, Bố-lộ布露, Bột-luật勃律: Đời Đường
chia làm Tiểu Bột và Đại Bột), tiếng Phạn
là Bolor (Balti). Ở phía Bắc Ca-thấp-di-la迦濕彌羅. Nay khoảng
Baltit thuộc Baltistan (Ba-nhĩthiếp-tư-thản巴尓怗斯坦) [theo Cunningham].
③ → Ngài đi về phía Nam đô thị Udaka-khāṇḍa (Ô-đạc-ca-hán-đồ烏鐸迦漢荼), qua sông Indus
và vào xứ Takshasila (Đát-xoa-thỉ-la呾叉始羅). Takshasila (Đát-xoa-thỉ-la呾叉始羅) khí hậu ôn hòa, dân thuần phác,
sùng kính Tam bảo, chùa tuy nhiều nhưng phần lớn đều hoang phế, tăng chúng ít,
tu theo Đại thừa. Vua A Dục có xây tháp ghi di tích Phật.
Takshasila |
Đến đời vua A Dục (Asoka), nơi đây là kinh đô miền
Tây bắc. Thái tử Câu-lãng-noa拘浪拏 coi thành này và bị ám hại.
Thái
tử là con vua A Dục, tên Đạt-ma-bà-đà-na達磨婆陀那 (Dharmavardhana).
Thái tử có đôi mắt đẹp như chim Cưu-na-la鳩那羅 nên có tên là
Câu-na-la駒那羅 (Kuṇāla), hoặc gọi Câu-lãng-noa拘浪拏
. Cuộc
đời Thái tử gặp hoạn nạn được kể rất nhiều trong truyện cổ Phật giáo sau này.
TAXILA |
TAXILA |
Thành này là nơi cổ kính, khi Huyền
Trang qua đây còn một vài cảnh chùa, và có tháp ghi di tích tiền thân Phật.
Takshasila
(Đát-xoa-thỉ-la呾叉始羅) còn gọi
là Taxila thuộc Rawalpindi
trong Punjab ,
gần Shahdheri. Taxila là một nơi khảo cổ quan trọng của Pakistan, nơi có một
thành phố di tích Gandhāran và trường đại học Takshashila (Takkasila, Taxila),
là trung tâm học thuật của Vedic/Hindu và Buddhist trong 7 thế kỷ, từ thế kỷ thứ
V trước công nguyên đến thế kỷ thứ II sau công nguyên. Hiện nay đã được UNESCO
công nhận.
Tên Taxila là âm của tiếng Ba tư
(Persian), tiếng Phạn là Takṣaśilā, Pali là Takkasilā. Hiện nay Taxila vị trí 33°46′45″Bắc, 72°53′15″Đông,
thuộc vùng Rawalpindi, gần thủ đô Islamabad. Viện bảo tàng Taxila được thiết kế
còn lưu giữ nền văn minh Gandhara. Những di tích Phật giáo đương thời
còn tìm thấy tại Taxila, và cả nền văn hoá Ấn giáo. Taxila còn một đặc điểm
khác là, nó có một đại học cổ nhất trên thế giới là Takshashila University .
Sau nhiều thăng trầm và biến động của lịch sử, nó từng là nơi huy hoàng rồi
chìm vào lãng quên rồi được phục hưng trở lại. Mãi đến những thế kỷ gần đây nó
được thiết lập lại trở thành một đô thị lớn.
► Rawalpindi vị trí 33°36′00″ Bắc 73°02′00″ Đông, cao độ 500m,
là một thành phố trên cao nguyên Potwar thuộc tỉnh Punjab, và gần thủ đô
Islamabad của Pakistan.
Vào mùa hè nhiệt độ có thể lên đến 52°C và mùa động có thể xuống
đến -5°C.
Rawalpindi |
Sông Indus uốn cong về hướng Bắc |
Vùng Delta của sông |
Sông
Indus bắt nguồn từ vùng phụ cận của hồ Mansarovar trên cao nguyên Tây Tạng, chảy
từ dãy núi Himalaya theo hướng Tây bắc qua tới Ladakh-Baltistan tới Gilgit
(Kashmir) ở phía Nam của dãy núi Karakoram, sau đó dần dần chuyển hướng theo hướng
Đông nam, chảy qua những hẻm núi khổng lồ gần Nanga Parbat massif. Ra khỏi các
vùng núi ở đoạn giữa Peshawar và Rawalpindi , chảy theo hướng nam gần như theo toàn bộ đường
chiều dài biên giới của Pakistan
với Ấn Độ nhưng sâu trong lãnh thổ của Pakistan . Chiều dài của sông này
khoảng trên dưới 3.000km.
Indus
có nhiều sông nhánh, có thời được gọi tên là Satnad
River khi sông này nhận nước của sông Kabul . Satnad River
(Sat= 7, nadi= sông): sông Kabul , sông Indus và
năm sông của vùng Punjab (Chenab, Ravi, Sutlej, Jhelum, Beas ).
Cuối
cùng sông kết thúc tại vùng tam giác Delta) phía Đông của Thatta, gần cảng Karacchi.
Sông Indus ở vùng Karakoram |
④ → Tây nam 700 dặm đến xứ
Simhapura (Tăng-ha-bổ-la僧訶補羅Seng-ho-pu-lo). Núi non cao ngất
chung quanh. Khí hậu lạnh, tánh người mạnh mẽ. Xứ này lệ thuộc nước Ca-thấp-di-la迦濕彌羅. Về phía Nam đô thành có
tháp Phật do vua A Dục xây, có chùa nhưng không có tăng chúng.
Sông Jhelum |
Cầu dây qua sông |
Simhapura nay là vùng Jhelum trong
Jhelum nằm phía Tây
sông Jhelum .
Jhelum (Jhelam, Shahmukhi) 32°0′56″Bắc 73°0′44″ Đông, cao độ 120m, nằm phía Bắc
tỉnh Punjab.
Khu
vực Jhelum trải dài từ sông Jhelum gần đến sông Indus. Phía Nam giáp Sargodha , Đông nam giáp Gujrat và
sông Jhelum ,
Tây giáp Chakwal, Đông giáp Mirpur và Bắc giáp Rawalpindi .
Jhelum
nóng vào mùa hè và khô, ôn hòa vào mùa đông. Lượng mưa trong năm 900mm.
Tàu thuyền có thể đi lại trên sông trong vùng Jhelum . Phong cảnh
gây ấn tượng, tuy là nó không hoang dã như vùng núi của Rawalpindi ở phía Bắc, nhưng có vẻ tươi tắn
nhờ thung lũng trồng trọt.
→ Sau đó Huyền Trang đi ngược lại
phía Bắc Takshasila qua sông Indus (sông Tín Độ) đi hướng Đông nam 200 dặm vào
Đại thạch môn (Great Stone Gate).
Nơi đây có sự tích Vương tử
Ma-ha-tát-đoả摩訶薩埵 xả thân cứu bảy con cọp bị đói,
sau đó đất đai trong vùng nhuốm màu đỏ như thấm máu của Ngài. Đến nay đất trong
vùng vẫn đỏ và cây cỏ đều có sắc đỏ.
⑤ → Đi tiếp về hướng Đông nam giữa
đồi núi khoảng 500 dặm đến Urasa (Ô-thứ-thi烏刺尸 Wu-la-shi, Ô-thứ-xoa烏刺叉). Xứ này núi đồi trùng điệp, ruộng đồng hẹp, khí hậu ôn
hòa, phong tục lễ nghi sơ khai.
Urasa là tiếng Sanskrit, nay là Hazara, vị trí 34°30′Bắc, 73°15′Đông.
Biên giới của Hazara về phía Bắc và Đông là vùng Northern Areas và Azad
Kashmir, phía Nam là thủ đô Islamabad của tỉnh Punjab, phía Tây nằm trên đường chia
ranh North-West Frontier Province. Sông Indus chảy qua đường ranh Bắc-nam.
⑥ → Vẫn hướng ấy, trèo qua những
ngọn đồi nguy hiểm rồi qua một cầu sắt (Iron bridge), đi hơn 1000 dặm, đến xứ
Kashmir (Ca-thấpdi-la迦溼彌羅), cố đô nay ở tại Srinagar (Tư-lợi-na-gia斯利那加 thủ đô của Khắc-thập-mễ-nhĩ克什米尔) do Ấn Độ kiểm soát.
Trung Quốc thời nhà Hán gọi nơi
đây là Kế Tân罽賓.
Nước này bốn bên núi cao ngất trời,
đường vào rất hẹp, nên xưa nay không bị xâm lấn. Khí hậu lạnh, tuyết nhiều, gió
ít. Phía Tây đô thành gần sông lớn. Có những bảo tháp do vua A Dục xây, tháp đều
có thờ xá-lợi Phật. Chùa có trăm ngôi, tăng chúng hơn năm ngàn người.
Vùng Jammu &
Kashmir có thủ đô là Srinaga (Tư-lợi-na-gia斯利那加), vị trí 34009Bắc 74079Đông, cao độ 1.730m, diện tích
105km2.
Thành phố có mặt hơn hai ngàn năm qua và có một chiều dài lịch sử. Vào khoảng
thế kỷ thứ III trước công nguyên thành phố là một phần đất của vương triều Khổng
Tước (Maurya), là một trong những vương triều lớn nhất của Ấn Độ. Vua A Dục
(Ashoka) đã đem Phật pháp tới thung lũng Kashmir, và những vùng đất gần với
thành phố trở thành trung tâm Phật giáo. Vào thế kỷ thứ nhất công nguyên, vùng
đất này dưới sự kiểm soát của vương triều Quý Sương (Kushans), và nhiều vị vua
của triều đại này đã truyền bá giúp Phật giáo phát triển mạnh.
Sau khi Phật nhập Niết-bàn 400
năm, vua Ca-nị-sắc-ca迦膩色迦 kết tập Tam tạng lần thứ tư. Lần
kết tập này thừa nhận Nhất thiết Hữu bộ. Trong kỳ kết tập này Tôn giả Thế Hữu世友 đóng vai trò quan trọng. Có ngài
Hiếp Tôn giả脅尊者 biên soạn bộ luận Đại Tỳ Bà Sa.
Vua dùng đồng đỏ dát thành những phiến mỏng để khắc toàn bộ Tam tạng, dựng tháp
để bảo tồn những bộ Kinh Luận này. Sau khi vua mất, nước loạn lạc, về sau Phật
giáo không còn phát triển mạnh nữa.
[Hiếp Tôn
giả là tổ thứ mười của Thiền Tông].
Trăng sáng trên núi tuyết - |
Phía Đông nam tân đô thành hơn mười
dặm, phía Bắc cổ thành, nằm ở phía Nam núi lớn có một ngôi chùa tăng đồ hơn ba
trăm người, có tháp thờ răng Phật, màu trắng vàng, có lúc phát sáng. Từ đó đi về
hướng Nam có chùa với tượng Quán Âm, đi tiếp Đông nam hơn ba mươi dặm gặp một
ngọn núi, trên núi có ngôi chùa cổ còn hơn ba mươi tăng đồ, tu tập theo Đại thừa.
Trước kia Tăng-già-bạt-đà-la僧伽跋陀羅(Saṃghabhadra,
dịch là Chúng Hiền眾賢) soạn quyển Thuận Chánh Lí Luận順正理論 cùng thời với Bồ Tát Thế Thân.
[Tăng-già-bạt-đà-la
có hai vị, một vị người Ca-thấp-di-la Bắc Ấn, soạn quyển Thuận Chánh Lí Luận順正理論 cùng thời với Bồ tát Thế Thân. Một vị người Tây Vực sang Trung
Quốc dịch kinh khoảng nhà Nam Tề năm 483-493].
Punch (Bán-nô-ta) → Rajauri (Át-la-xà-bổ-la) |
Khi Huyền Trang đến nước Ca-thấp-di-la,
vua nghe có Cao tăng đến tiếp rước rất long trọng và thỉnh Ngài thuyết pháp.
Nơi đây Huyền Trang được học với Cao tăng Đại thừa là ngài Tăng Xứng僧稱.
Ngài Tăng Xứng là bậc giới hạnh
nghiêm minh, đa văn tổng trì, tuy tuổi bảy mươi nhưng vẫn minh mẫn, thâm giải đạo
lý cao siêu, quý hiền trọng sĩ. Khi gặp ngài Tăng Xứng, Huyền Trang khiêm cung
thưa hỏi không mỏi mệt, nhân đây thỉnh chỉ dạy các bộ luận. Ngài Tăng Xứng tuổi
đã bảy mươi, tuy khí lực suy yếu, nhưng khi gặp Huyền Trang rất vui mừng, đem hết
sức giảng dạy. Buổi sáng giảng Câu Xá Luận俱舍論, chiều giảng Thuận Chánh Lí Luận順正理論, tối giảng Nhân Minh Thanh Minh
Luận因明聲明論. Học chúng theo không nổi chỉ có
Pháp sư lãnh ngộ đến chỗ thâm áo. Ngài Tăng Xứng khen ngợi Huyền Trang sau này
nối tiếp pháp hai ngài Vô Trước, Thế Thân. Các học tăng nhiều nơi đến học, thấy
Huyền Trang được khen ngợi như vậy, liền chất vấn nhưng Huyền Trang đều giải
đáp rõ ràng.
Trong thời gian đó, nhà vua cho
các vị quan phụ giúp Huyền Trang sao chép kinh luận để sau này Ngài đem về nước.
Huyền Trang ở lại Kashmir hai năm
để học kinh luận và viếng các Phật địa ở đây.
⑦ → Rời Kashmir, Ngài đi theo đường
núi về hướng Tây nam 700 dặm đến Punch (Bán-nô-ta半笯嗟).
Nước này nhiều sông nhiều núi, diện
tích đất trồng nhỏ hẹp. Khí hậu ấm áp, phong tục có tính cách quyết liệt mạnh mẽ.
Người dân tính tình chất phác, thuần
hậu, tin tưởng Tam bảo. Có năm ngôi chùa, nhưng phần lớn bị hoang phế.
Phía Bắc đô thành có một ngôi
chùa, ít tăng chúng. Có một tháp bằng đá.
Vùng Punch (Poonch, Prontsa) được mọi người coi như một tiểu
Kashmir, đó là một vùng nhỏ ngày nay dưới sự kiểm soát của Pakistan .
Poonch
có một lịch sử trước công nguyên rất lâu đời, từ khi bước chân Đại đế A-lịch-sơn
(Alexander) đến. Và lịch sử thay đổi rất nhiều qua từng triều đại.
Huyền
Trang đến thăm nơi đây thì cả ba vùng Rajaori, Poonch và Abhisara chịu sự thống
trị của Kambojas (Kham-ba-giai-tư堪波佳斯).
⑧ → Ngài đi tiếp 400 dặm đến
Rājapura (Át-la-xà-bổ-la遏邏闍補羅) là một phố nhỏ dưới chân đồi
[phía Nam Kashmir]. Đô thành hiểm trở, nhiều đồi núi, sông suối nhỏ hẹp, đất
đai không phì nhiêu. Có mười ngôi chùa, rất ít tăng chúng.
Từ nước Lam-ba đến đây, dân chúng
không được nho nhã cho lắm về tính tình lẫn hình dáng.
Rājapura
nay là Rajauri (Lạp-giác-lợi拉覺利) tọa độ 33°38′Bắc 74°3′Đông, cao độ 915m.
Rajauri
hiện nay là một thành phố thuộc khu vực Rajauri, trong Jammu & Kashmir - Ấn
Độ.